Thứ Tư, 3 tháng 10, 2012

Tin Đồn Sở Văn Hóa VN: Tương Lai Đốt Sách Chôn "Hồ C.Minh"


Cái Chết Của Hồ Chí Minh: Một Phỉnh Gạt Kiệt Tác

 

                       
Sau cuộc tấn công thảm bại năm Mậu Thân 1968, Hồ Chí Minh vô cùng thất vọng và đã qua đời năm 1969. Ông ta để lại tờ di chúc được các nhà lãnh đạo Hà Nội thêu dệt, thần thánh hóa như là một cha gìa của dân tộc, suốt đời hy sinh cho dân cho nước, suốt đời cần kiệm, liêm chính. Tới cuối cuộc đời còn dặn lại đảng và nhà nước không được lảng phí tài sản quốc gia cho dù trong đám tang của mình. Nhưng sự thật ra sao?
Tờ di chúc được cộng đảng phổ biến cho thấy ông ta từ chối mọi bia mộ và hình tượng, chỉ muốn được hỏa thiêu và đựng trong ba chiếc hủ sành và đem chôn đơn sơ tại ba miền Bắc, Trung và Nam của đất nước. Trước khi hắt hơi thở cuối cùng ông còn ráng dùng hết sức còn lại dặn Bộ Chính Trị là hãy miển thuế cho nông dân sau khi chiến tranh chấm dứt. Con người yêu nước đến thế là cùng! Lịch sử thế giới từ cổ chí kim chưa có vị hoàng đế, hay lãnh tụ nào thương dân, yêu quê hương, đất nuớc họ như ông Hồ Việt Nam mình!
Vào tháng Giêng năm 2000, tại Hà Nội một vài tin tức từ kẻ xấu am hiểu tình hình trong cung đình đỏ xì ra thì hai năm trước khi người “điếm gìa” về gặp cụ Mác, cụ Lê thì đảng cộng sản Việt Nam đã yêu cầu một nhóm chuyên viên lăng tẫm của Liên Sô sang để chuẩn bị ướp xác cho một xác chết hiện chưa có. Để bảo đảm cho công việc không bị trở ngại trong bất cứ tình huống nào, Hà Nội đã cử ba y sĩ Việt Nam được chọn lựa kỹ càng, sang Liên Sô để thực tập công tác nầy.
Khi ông ta qua đời, xác chết được đưa đến một hang sâu cách phía tây Hà Nội một trăm cây số về phía bờ sông Hác để ướp và giữ nơi đó vì trong lúc còn đang chiến tranh. Sở dĩ xác được cất trong hang sâu vì sợ Mỹ dội bom, và được canh giữ bởi một toán đặc nhiệm khoảng ba chục người.
Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Quý, chủ tịch Viện Đông Nam Á Châu ở Paris thì người ta không thể ngây thơ để tin tưởng rằng Hồ Chí Minh còn giữ được sang suốt cho đến ngày cuối đời, và đã không biết gì về sự chuẩn bị ướp xác mình từ trước. “Tôi nghĩ đây là sự đánh lừa cuối cùng của ông Hồ. Ông được thần thánh hoá từ lúc còn sống, nên ông ta không muốn được ướp xác nghịch lại ý muốn mình, mà ông muốn mình giống như Lenine, người mà ông tôn sùng, và giống như Staline, có một cái lăng lộng lẫy sau khi chết. Chỉ có một điều là để đóng vai trò gần với nhân dân và là một người khiêm nhường để tiếp tục lừa dối dân chúng và thế giới, ông để nguời khác (Bộ Chánh Trị) thay ông để thực hiện ước nguyện nầy.” (Nguyên Văn, trang 161).

Sự dối trá cuối cùng. Theo xác nhận y khoa thì ông Hồ chết vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, và được loan báo ngày hôm sau vì không thể cho ông chết vào cái ngày kỷ niệm bản tuyên ngôn độc lập của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tương tự như trường hợp Phạm Văn Đồng, họ cho sống thêm một ngày nữa, vì không thể để ông chết vào ngày mà cả nước ăn mừng chiến thắng 30 tháng 4 lần thứ 25, đúng vào năm 2000. Sự thật ông Đồng từ trần vào ngày 30 tháng 4 năm 2000.
Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là gì mà tất cả học sinh muốn vượt qua ngưởng cửa nhà trường từ trung học đến đại học đều phải thấu triệt. Thật ra từ người dạy đến người học đều biết với trình độ lớp ba trường làng của họ Hồ thì làm gì tạo ra được một nguồn tư tưởng, một triết lý sống và chiến đấu. Có chăng đó chỉ là những mảnh vụn của sự lừa đảo, gian trá mà Hồ áp dụng suốt cuộc đời mình, rồi bọn xu nịnh gọp lại, tô lên lớp son phấn rẽ tiền để đặt cho một tên gọi là tư tưởng Hồ.

Ngay cã việc quan trọng nhất của cuộc đời Hồ là chiến đấu mà ông ta không biết được mục tiêu của nó là gì. Lúc để lừa dối những người quốc gia ông tuyên bố mục tiêu của ông là vì nền độc lập của dân tộc. Nhưng rất nhiều lần ông tuyên lại bố: “Chủ nghĩa Mác Lê không những chỉ xây dựng một cái túi thần và một kim chỉ nam, mà còn thực sự là một mặt trời soi sáng con đường đi đến chiến thắng cuối cùng, đến xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” (Nguyên Văn, trang 159). Rành rành ông đã là tên lính xung kích mang chủ thuyết ngoại lai Mác Lê áp đặt lên quê hương dân tộc bằng phương tiện bạo lực, bạo tàn nhất trong lịch sử loài người.
Nói đến sự lừa dối không thể không đề cập đến những kẻ bị lừa, những nạn nhân của sự lừa dối không tiền khoáng hậu đuợc đa số người Việt Nam biết đó là triết gia Trần Đức Thảo, xuất thân từ Đường Ulm (1), là bạn học cũng là bạn thân của triết gia lừng danh Pháp là Jean Paul Sartre. Ông Trần Đức Thảo đã từng được Sartre bày tỏ sự khâm phục trong khi tranh luận và đã tạo được hình ảnh tốt cho Việt Nam trong văn giới Pháp. Hồ cho người sang mời thỉnh ông Thảo về để phục vụ quê hương.
Một số không nhỏ những người Việt thành công ở hải ngoại đều nghĩ đến sự cống hiến khả năng của mình cho đất nước. Ông Thảo là một trí thức không ngoại lệ. Sau khi về nước, rất nhanh chóng ông nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông không ngần ngại trình bày quan điểm mình trong vấn đề văn học, nghệ thuật và tức thời những chế độ ưu đải của ông đều bị cắt hết. Ông trở thành tù nhân không song sắt. Sự đói khổ vằn vặt khiến nhà trí thức khoa bảng nầy bán hết sách vở, bàn ghế, rồi đến những bộ quần áo mà còn có người mua. Vậy mà vẫn không được buông tha, ông cuối cùng bị đày vào một miền quê hẻo lánh mà theo ông Trương Như Tảng viết trong hồi ký, ông Thảo giống như một người trên cung trăng, một tên khật khùng. Năm 1993, vì b
iết ông không còn sống sót được bao lâu, người cộng sản tống ông sang Paris, nơi mà thời sinh viên ông được ái mộ, khâm phục. Ông qua đời tại đây trong nghèo đói và vô thừa nhận. Người cộng sản hủy hoại tài năng trí tuệ của đất nước một cách quá thô bạo.
Người thứ hai là luật gia Nguyễn Mạnh Tường, chủ tịch luật sư đoàn ở Hà Nội và cũng được đào tạo tại Pháp. Nghe lời kêu gọi của ông Hồ, ông Tường về để góp phần xây dựng đất nước. Vào khoảng năm 1956, phấn chấn trước phong Trào Trăm Hoa Đua Nở của Trung Quốc, giới văn nghệ sĩ, trí thức Việt Nam cảm thấy luồng gió tự do dân chủ đã thổi đến. Họ tung ra một số tác phẩm đế cao tự do, dân chủ. Hà Nội chờ cho các đoá hoa xuân nầy nở rộ để rối tất cả đều bị tóm gọn và đưa vào trại tập trung cải tạo, trong đó có vị cha để của bản quốc thiều Lưu Hữu Phước, và Nguyễn Mạnh Tường cũng cùng số phận với khoảng năm ngàn văn nghệ sĩ, trí thức vì đã bày tỏ quan điểm phong kiến và tiểu tư sản.
Ba mươi bảy năm sau, 1992, ông vẫn bị bạc đải. Tất cả nhu cầu sinh sống bị cắt bỏ kể cả trợ cấp y tế lúc đau yếu, ông Tường gởi bản Hồi Ký của mình đến Ủy Ban Việt Nam Tranh Đấu Cho Nhân Quyền ở Paris. Ông lên án sự dã man tột cùng của chế độ đối với trí thức vì muốn có tự do dân chủ, và ông không tỏ ra hối hận vì ông đã làm tròn bổn phận của một trí thức đối với dân tộc và trước lịch sử. Ông chết trong sự đói khổ vào năm 1996. Và tài sản duy nhất của ông còn để lại, đó là một con gà mái mà ông cùng vợ và đứa con gái lượm trứng để sống thoi thóp từng ngày.
Đây là một vài việc trong muôn ngàn lấn lừa dối mà người cộng sản đã làm trong suốt thời gian họ giấy loạn cho đến lúc họ hoàn toàn chiếm được miền Nam. Đây là bài học quí gía cho những ai còn lăm le hòa hợp, hoà giải với cộng sản để hòng kiếm địa vị.
Nhà ái quốc Phan Bội Châu mà còn bị chúng bán cho mật vụ Pháp để lấy tiền thưởng, huống hồ gì quí vị. Hãy liệu lấy hồn đừng mắc vào chiếc bẩy cũ mèm của cộng sản để rồi hối tiếc suốt đời.

Ts . Nguyễn ngọc Sẳng

Ghi chú:
(1) Đường Ulm nơi tọa lạc của trường Cao Đẳng Sư Phạm của Pháp (Ecole Normale Supérieure), một trường thuộc loại danh gía từng đào tạo những cấp lãnh đạo, của Pháp như tổng thống Georges Pompidou, tổng thống Sénégal Léopold Senghor, và nhà văn Thierry Maulnier vv..
Tham Khảo:
Dương Thu Hương (1991) Thiên Đường Mù, Hà Nội, Việt Nam
International Symposium on Ho Chi Minh, Di Chúc của Hồ Chí Minh, Vietnamese National Commission for Unesco, Vietnam Courier, Ha Noi 1990.
Nguyễn Ngọc Phách (2006) 13 Hồ-Sơ Lịch Sử, Người Dân, số 190, trang 4-8.
Tauriac, Michel (2001). Viet Nam: Le Dossier Noir Du Comminisme. Nguyên Văn chuyển ngữ, xuất bản năm 2002 tại California. Văn Mới xuất bản.
Thụy Khuê (2005). Sóng Từ Trường 3, California, Văn Mới xuất bản.
 -----------------------


  SƠ LƯỢC VỀ CON NGƯỜI THẬT CỦA HỒ CHÍ MINH


Trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin hiện nay, dường như không còn một bí mật nào có thể kín giấu mãi với công chúng. Điều này cũng không là một ngoại lệ đối với các lãnh tụ của cộng sản, những kẻ vốn được thêu dệt, nhào nặn thành những vĩ nhân, thánh nhân trong thế giới loài người, còn lại con người trần trụi, phàm tục và bất toàn của họ thì được che đậy hết sức khéo léo để  lừa phỉnh, để mị bịp...



Lãnh tụ Hồ Chí Minh của cộng sản Việt Nam có thể được xem làm một kẻ bịp bợm nhất trong số các lãnh tụ cộng sản.



Trước hết, về tiểu sử của Hồ Chí Minh, đảng cộng sản viết rằng Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sau được đổi lại thành Nguyễn Tất Thành, sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước. Nhưng sự thật có phải như vậy không, hay đây chỉ là một trong những cách để xóa bỏ cái xuất thân từ gia đình quan lại Phong kiến vốn bị coi là kẻ thù của giai cấp? Bởi cha đẻ của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc tức Nguyễn Sinh Huy, một đứa con rơi của cử nhân Hồ Sỹ Tạo và là một quan lại nát rượu cuối Nguyễn Triều, bị bãi chức, lưu đày vào vùng đất mới khai mở ở Phương Nam, do can tội tra tấn chết một tù nhân trong một cơn say rượu khi Sắc đang làm tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định vào năm 1909.



Cổ nhân đã đúc kết được kinh nghiệm quý báu “Hổ phụ sinh hổ tử”, “Cẩu phụ sinh cẩu tử”: Được sinh ra bởi một người cha nát rượu, vốn là một hoang thai của một người đàn bà thất tiết, lại ít được học hành, làm sao Hồ Chí Minh lại trở thành một lãnh tụ vĩ đại, nói thông viết thạo hơn 30 ngoại ngữ như tuyên truyền của đảng cộng sản được?



Ông Nghè Trương Gia Mô người đã tiến cử Nguyễn Tất Thành
       

Theo William J. Duiker trong sách Hồ Chí Minh, bản dịch của Phòng Phiên dịch Bộ Ngoại giao Hà Nội, trình bày rằng, “ngày 9-5-1908 thì tại kinh đô Huế nổ ra cuộc biểu tình Chống thuế, sáng hôm sau cảnh sát đến lớp nhận diện anh Thành và nói: “Tôi có lệnh yêu cầu người có hành vi quấy rối này phải thôi học”; Đó là ngày cuối cùng của Nguyễn Tất Thành đến trường… Sau khi bị đuổi học, Thành biệt vô âm tín trong một vài tháng… Cuối cùng Thành quyết định rời bỏ Trung Kỳ đi về phía Nam, tới Nam Kỳ. Tháng 7-1909, trên đường đi Thành đã dừng lại ở Bình Khê, nơi cha Thành vừa mới bị bãi chức Tri huyện và lưu đày biệt xứ”. Việc một học sinh bị đuổi khỏi học đường cũng chứng minh được hạnh kiểm của trò Thành là quá kém, là một học sinh cá cá biệt, mất dạy ít chịu học hành mà chỉ chuyên quậy phá. Bị đuổi học vĩnh viễn khi mới bước qua tuổi 13 thì hiểu biết của Hồ Chí Minh ở mức độ nào chắc ai cũng hiểu được mà xin được miễn bàn nơi đây.



DỤC THANH HỌC HIỆU, nơi Nguyễn Tất Thành dạy môn thể dục và "vệ sinh thường thức"

Cũng theo Theo William J. Duiker trong sách Hồ Chí Minh, bản dịch của Phòng Phiên dịch Bộ Ngoại giao Hà Nội, thì trên đường vào Nam, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết và dạy học ở trường Dục Thanh từ tháng 8 năm1910 và rời Phan Thiết vào Sài Gòn tháng 2 năm1911.Với hạnh kiểm của một học trò “đầu bò” như Nguyễn Tất Thành, liệu ông ta có thể dạy được gì ở ngôi trường Dục Thanh này? Theo lời cụ Hồ Tá Bang, một trong sáu sáng lập viên của Dục Thanh Học hiệu tức là Giáo Dục Thanh Thiếu Niên, thì, “Khi thấy một thiếu niên gầy gò, rách rưới, sau nhiều tháng thiếu ăn, thiếu mặc ghé vào trường xin làm bất cứ việc gì để có được cơm ăn hàng ngày, thiếu niên này trình qua thư tiến cử của ông nghè Trương Gia Mô, cụ Hồ Tá Bang thương tình, nhận thiếu niên này vào trường, cho đảm nhiệm việc dạy môn thể dục và vệ sinh thường thức, tức là môn học không cần đến sách giáo khoa, cũng khần cần soạn giáo án: Mỗi sáng sớm, cậu thiếu niên Nguyễn Tất Thành đánh thức các cháu thiếu niên dậy hướng dẫn cho các cháu cách làm vệ sinh cá nhân sau mỗi khi đi tiêu và cách làm vệ sinh cá nhân sau mỗi khi đi tiểu, môn học chỉ có vậy thôi”. Như vậy những văn thơ, những phát ngôn được đảng cộng sản nhét vào miệng của Hồ Chí Minh có thực sự là do chính Hồ Chí Minh, một con người ít học, sáng tác hay phát ngôn hay không? Hay Chính Hồ Chí Minh chỉ là một kẻ đạo văn, đạo thơ không hơn không kém?



Có lẽ quý độc giả vẫn còn nhớ Quản Trọng (管仲) một nhà quân sự, một nhà tư tưởng thời Xuân Thu, và là một tể tướng của Tề Hoàn Công vào khoảng năm 685 Trước Công Nguyên, đã được Tề Hoàn Công hết mực kính trọng bởi tài thao lược, mưu trí và sự thẳng thắn. Chuyện kể rằng có lần Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng rằng: "Trẫm có tật hơi thích nữ sắc, điều này có tai hại gì đối với quốc gia không?" Quản Trọng trả lời: "Không, ham mê nữ sắc không gây tai hại gì cho quốc gia. Không nghe lời khuyên của những bậc thánh hiền mới có hại cho quốc gia và thiên hạ.". Nhưng có lẽ thiên hạ nhớ đến Quản Trọng nhiều hơn cả chính là bởi kế kinh bang tế thế mà Quản Trọng đã hiến lên Tề Hoàn Công rằng:

"Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc

Thập niên chi kế mạc như thụ mộc

Chung thân chi kế mạc như thụ nhơn

Nhứt thu nhứt hoạch giả, cốc dã

Nhứt thu thập hoạch giả, mộc dã

Nhứt thu bách hoạch giả, nhơn dã"



Xin tạm dịch là:

"Kế một năm, chi bằng trồng lúa

Kế 10 năm, chi bằng trồng cây

Kế trọn đời, chi bằng trồng nguời.

Trồng một, gặt một, ấy là lúa

Trồng một, gặt mười, ấy là cây

Trồng một, gặt trăm, ấy là người"



Ấy vậy mà ở trong tất cả các học viện, các trường đại học, trung học, tiểu học và các cơ sở giáo dục của nước Việt Nam Cộng Sản đều kẻ vẽ câu khẩu hiệu thật hoành tráng rằng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích tram năm trồng người” và ghi rỏ tác giả là HỒ CHÍ MINH, đây quả thực là một hành vi trấn cướp, cưỡng đoạt tri thức một cách trắng trợn, một lối bịp bợm hết sức Hồ Chí Minh.



"Gian Trá Ký Trong Tù"

Cũng là hành vi trấn cướp tri thức đó, một tập thơ của một tù nhân người Hán là NGỤC TRUNG NHẬT KÝ, sáng tác từ 29.8.1932 đến 10.9.1933 tại một nhà tù ở Quảng Tây, Trung Quốc. Tù nhân này đã chết vì bệnh lao trong tù sau khi viết xong 134 bài thơ và bỏ lại tập thơ trong nhà lao đó, nơi mà 10 năm sau Hồ Chí Minh mới bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vào ngục này (1942-1943) và chắc chắn là Hồ đã nhặt được cuốn Nhật Ký này cũng chính tại nhà lao đó.



Toàn dân Việt Nam nghĩ gì, tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam nghĩ gì, các văn nô bồi bút của cộng sản Việt Nam nghĩ gì về câu chuyện Ông Trần Đắc Thọ kể lại sau đây,  Ông Trần Đắc Thọ đã trực tiếp hỏi chuyện cụ Hồ Đức Thành (năm đó 85 tuổi) nguyên Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, nguyên Chủ nhiệm Biện sự xứ Việt Nam tại Trung Quốc,.. nguyên Đại biểu Quốc hội khóa I (1946 – 1960) là người sớm tiếp xúc với tập Nhật Ký Trong Tù từ trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Đọc hết tập Ngục trung nhật ký, cụ Thành có hỏi Bác Hồ vì sao ở bìa tập Nhật ký lại ghi: 29.8.1932 đến 10.9.1933. Bác đáp: ‘Mình muốn đánh lạc hướng, ai hiểu thế nào thì hiểu’.”  Với 02 con số ngày tháng năm trên bìa bản gốc quyển Nhật Ký Trong Tù là 29.8.1932 và 10.9.1933, thời gian này không phải là thời gian “Bác” Hồ Chí Minh ở tù tại Quảng Tây, Trung Quốc do quân Tưởng Giới Thạch bắt giam đã làm nhiều người nghi ngờ, chất vấn “Bác”. Tuy nhiên, “Bác ” luôn trả lời không có sức thuyết phục, luôn bao biện với ngụy ngữ của một con người sinh ra trong gia đình vô gia giáo, lớn lên từ một học trò mất dạy, “đầu bò”. Đó là điều dễ hiểu thôi, bởi vì “Bác” không phải là tác giả thật, chỉ có chính tác giả thật mới trả lời được câu hỏi này có sức thuyết phục nhất mà thôi!



Ấy vậy mà đã có không ít người phải lụy chốn lao tù vì tập Nhật Ký Trong Tù, và cũng có rất nhiều người đã được vinh than phì gia bởi đã uốn lưỡi để ca ngợi, để tán dương những bài thơ nặng mùi uế khí trong đó.



Xuất phát từ mục đích nhằm tâng bốc lãnh tụ, nhằm dùng “thần tượng Hồ Chí Minh” làm cái phao cuối cùng để cứu đảng khỏi chết đuối, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam tiếp tục dí những vần thơ ô uế đó vào miệng Hồ Chí Minh, tiếp tục thừa nhận tập thơ nhặt được đó là của Hồ, và đưa vào sách giáo khoa chính thức của hệ thống giáo dục từ trung học đến đại học, để tiếp giáo dục cho học sinh các thế hệ, sự bịp bợm, dối lừa, vay mượn, trộm cắp tri thức bằng những vần thơ tục tằn và ô uế đó.



Nhiều trí thức của Việt Nam, cũng vì cái ăn, cái mặc, mà quên luôn cả liêm sỷ, quên luôn cả nhân cách, để uốn lưỡi cú diều mà tâng bốc, mà tán dương Hồ và tập “Gian Trá Ký Trong Tù” như lời bộc bạch của một trí thức Xã Hội Chủ Nghĩa, giáo sư Lê Phong: “Đọc văn thơ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tôi luôn luôn đặt cho mình các câu hỏi về những bí ẩn chưa biết hết được. Nghiên cứu về Bác và văn thơ Bác, đối với tôi, là đứng trước những bí ẩn ấy”. Thật là một kẻ sỹ vô liêm sỷ đến mức không thể nào vô liêm sỷ hơn được nữa!



Tất nhiên không chỉ riêng giáo sư Lê Phong, mà cả Bộ Chính Trị, cả 3 triệu đảng viên và cả những người đang được “bác và đảng” ban ơn bố đức, cho cơm ăn, áo mặc đều phải sống thiếu liêm sỷ như vậy, đều phải luôn luôn uốn lưỡi cú diều mà phát ngôn một cách vô liêm sỷ, thiếu nhân cách như vậy về Hồ Chí Minh và những sản phẩm của Hồ. Cả việc xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh như một người "nhà trời" nhập thế để cứu nước cứu dân, rằng Hồ Chí Minh sống thanh đạm một đời "tiên phong đạo cốt" không vợ, không con, để cống hiến cả cuộc đời cho dân cho nước, cũng là một điều dối trá đến vô liêm sỷ, bởi ngoài những người vợ Nga, vợ tàu, thì Hồ Chí Minh có cả hàng đàn vợ Việt và hàng đống con rơi, mà trong số đó hai đứa con rơi của Hồ Chí Minh vẫn an nhiên tự tại đó là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tất Trung, và tất nhiên mẹ của những đứa con rơi của Hồ Chí Minh, tức là những người tình một đêm của vị "Lãnh Tụ Vĩ Đại" này đã phải chết một cách bí ẩn để bảo toàn huyền thoại cho "Người Nhà trời" này. Tất nhiên đối với cuộc đời và nhân than của con người Hồ Chí Minh vì vẫn còn muôn vàn bí ẩn khác, bởi y là một lãnh tụ cộng sản, than thế và sự nghiệp của lãnh tụ phải được tô vẽ, phải được nhào nặn, đó là quy luật chung của cộng sản, chỉ tiếc rằng đồi với Hồ Chí Minh sự thật chỉ có một phần trăm, còn chím mươi chin phần trăm còn lại là hư cấu, là tô vẽ là thêu dệt để con người đó trở thành huyền thoại. Một huyền thoại về Hồ Chí Minh được Lê Duẩn, trường Chinh, Phạm Văn Đồng và bộ chính trị thêu dệt và lan truyền khắp Hà Nội và Bắc Kỳ xứ, suốt thập niên 60s và 70s của thế kỷ trước trong một nổ lực khác để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, ấy là “Bác Hồ đi ỉa thì phân của bác vuông như cái thước thợ nề, và thơm như hoa lài hoa lý”. Thật là dối trá bịp bợm đến ô nhục! Nhưng cũng không có gì quá lạ lẫm, bởi như đã nói ở trên, đối với Hồ Chí Minh thì chỉ có 1 phần là sự thật, còn lại 99 phần là dối trá, dối trá đến cả họ, cả tên cả ngày sinh ngày mất, có nghĩa dối trá lường láo suốt cả đời người rồi. Vậy thì chúng ta, những người dân Việt còn lý do gì nữa để tin vào Hồ Chí Minh, tin vào đường lối mà ông ta đã chọn, chúng ta còn lý do nào nữa không để tiếp tục tin vào đảng cộng sản? Còn lý do gì nữa để chúng ta chần chờ, không rủ bỏ chế độ cộng sản và xây dựng một chế độ chính trị thực sự do dân, vì dân?



Ngày 30 tháng 9 năm 2012

 


Nguyễn Thu Trâm

--

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét