Posted on Tháng Năm 12, 2011 by mylinhng
3

Hữu Loan
Nếu muốn trở thành thi sĩ thực sự trong lòng nhân thế, thì hãy quên đi hai chữ danh vọng. Danh vọng tiếng tăm người đời thường ham muốn; nhưng cũng chính nó sẽ giết chết hồn thơ và cảm hứng sáng tác. Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, Tản Đà, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử v.v đã để lại cho chúng ta những kiệt tác bất hủ lưu danh thiên sử ngàn thu. .Trong khi đó các ông lại nghèo xác xơ. Có những người làm thơ ra, thiên hạ còn coi thường không thèm đọc. Chỉ còn thời gian là sàng lọc, khi trí tuệ cảm nhận lên cao thì thiên hạ mới nhớ tới các ông. Than ôi, các ông đã là người thiên cổ từ lâu rồi.Nhưng không ai có thể sau một đêm ngủ dậy mà trở thành thi sĩ. Ngày xưa, thường phải học hành lấy sự nghiệp quan trường làm chính. Nhưng khi đã làm quan to thì các ông lại chẳng sáng tác ra được một bài thơ nào cho nên hồn. Chỉ khi đã bị thất sủng, bị đày đoạ ra biên cương, chỉ khi đã bị đẩy xuống tận cùng cuả đau khồ thì tâm hồn các ông mới trỗi dậy, khóc thương, lồng lộn đòi cuộc sống, đòi văn thơ.
Thi ca là kho báu tâm hồn cuả những người nghèo, chứ không phải cho người giàu. Người giàu đã có vàng bạc tiền cuả rồi, họ cần thi ca để làm gì? Có chăng chỉ là đua đòi đánh si cho bóng cho cái mặt mình thêm dày thêm bóng mà thôi mà thôi. Thật nực cười cho cả những đao phủ giết người trong nháy mắt, những Gangster, những trùm băng đảng khủng bố, hay những con yêu dâu xanh cũng tự nhận mình là văn thi sĩ, thậm chí còn ăn cắp thơ người khác bắt mọi người ca ngợi, học tập. Khi đọc một bài thơ ta thấy những gì? Những câu, những chữ, những vần, những điệu, những ý nó liên kết với nhau như một nhịp cầu, nghe như có hơi thở đều đặn cuả một linh hồn, xa xa như làn sóng thủy triều mênh mông vô tận…Thế mới gọi là thơ. Đọc một bài thơ chỉ thấy chữ thấy câu , những chữ ta đã nghe nhàm chán như trong nghị quyết chỉ thị cuả đảng thì đó có phải là thơ đâu. Lắm chữ nhiều từ nhưng rời rạc tối nghiã, cố tạo ra sự mập mờ khó hiểu để người ta nhầm lẫn là cao siêu lắm. Ta hãy nghe anh chàng Phạm Tiến Duật làm thơ: „ Xe không có kính, không phải vì xe không có kính- Đạn nổ bom rơi kính vỡ đi rồi“ .Cũng giống như „ Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi- Con cóc nhảy đi, con cóc ngồi đó.“. Họ làm thơ như vậy đó, nó trối tai quá, chẳng có hình ảnh trí tuệ , trí tưởng tượng gì cả. Họ còn bảo Phạm Tiến Duật là viện sĩ hàn lâm cuả đảng, cuả dòng thơ cách mạng yêu nước chống Mỹ. Tố Hữu chỉ làm thơ con cóc thôi mà cũng được phong là đại thi hào ngang ngưả với Nguyễn Du. Cái khốn nạn thi sĩ và danh vọng là ở chỗ đó. Làm thơ không phải vì tâm linh tâm hồn vì nghệ thuật sáng tạo mà chỉ vì tuyên truyền chính trị, biến những khẩu hiệu suông tẻ nhạt thành những bài vè có mùi mắm tôm, mắm ruốc, dưa khú mà vẫn phải bịt mũi khen hay do áp lực cuả cường quyền và súng đạn. Tôi phê phán thẳng cánh, và rất khó chiụ khi phải đọc những bài thơ như vậy. Ngực họ đã đầy huân huy chương sáng loé lên rồi hoặc với những tấm biến treo cao rất oai chủ tịch đảng,chủ tịch nước, uỷ viên bộ chính trị mà vẫn chưa đủ còn phải nhất quyết kèm theo cái thẻ thi sĩ dán ở túi áo nưã thì mới thoả mãn hay sao? Thật ra tôi không bao giờ đọc mà chỉ tình cờ nhớ lõm bõm. đôi khi có người viết thành những bài bình phẩm ca ngợi họ. Người ta gọi họ là bọn bồi bút sinh ra chỉ để ăn lương bốv thí cuả đảng và ca ngợi đảng và lãnh tụ. Tôi rất thích đọc khi ai đó viết về Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Hồ Dzech và tôi đọc rất say xưa. Thơ tình là một mảng đề tài mà tôi thích, nó là những giọt nước mắt yêu thương cuả tâm hồn. Mình có như thế nào, mình nghĩ những gì thì mình sẽ viết ra như thế đó. Đã là tình yêu thì không thể dối trá, không thể không nói có, có nói không. Nếu chả may nhân vật mà mình viết trong thơ có vô tình đọc được, cô ta sẽ nghĩ về mình như thế nào? Dù cho mình không nói rõ tên là ai. Nếu mình điêu ngoa cố tình viết sai tâm trạng mình? Sau này ai cũng phải chết cả, nhưng tấm lòng chân thành cuả lòng mình hy vọng sẽ được cảm thông, hoá giải cho những buồn đau thương nhớ trên cõi trần gian giả tạm này.
Người cộng sản họ cũng làm thơ tình. Theo tôi thơ thì có nhưng tình thì không. Nghe nói họ tuyên truyền tôn thờ một anh chàng đồng tính luyến ái cả đời không biết mùi mồ hôi đàn bà, không biết cái slip của đàn bà dày mỏng như thế nào.Chắc các bạn cũng biết tên tuổi anh chàng này như sấm động ngang tai. Anh chàng này họ Xuân tên Diệu. Thú thực thơ anh ta tôi chỉ ngửi thấy mùi húng lìu và thịt chó thôi. Nhưng bộ máy tuyên truyền cuả đảng thi nhau gọi anh ta là hoàng tử thơ tình. Thật là mâu thuẫn khi những bài thơ tình đều viết ra trước năm 1945, thì đảng phê phán là ủy mị tiểu tư sản và chính Xuân Diệu tự đốt đi, nguyền ruả nó. Sau năm 1945 Xuân Diệu rất hiếm làm thơ tình; nhưng cớ sao bộ máy tuyên truyền cuả đảng cứ gọi mãi Xuân Diệu là Hoàng tử thơ tình? Gọi như vậy có phải là háo danh một cách trơ trẽn không? Cũng như họ gọi ông Hồ là danh nhân văn hoá, tập thơ Ngục Trung Nhật Ký là do chôm chiả cuả người khác? Trong khi có những chàng hoàng tử đích thực như Nguyễn Bính, Hồ Dzech, Hữu Loan v.v..thì bị gán cho cái tội nhân văn giai phẩm, kẻ đi tù, người về quê đóng gạch, luôn bị rình rập ám toán đến tuyệt đưòng sinh nhai. Nhiều người sống lay lắt dật dờ như cái bóng mà chết dần chết mòn như các ông: Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê đạt, Hoàng Cầm v.v..Trong số những mảnh đời tài ba bất hạnh này tôi thấy đau xót cho Hữu Loan một nạn nhân thương tâm cuả chế độ cộng sản và tôi đã chuyển thể thơ ông. Nếu các bạn rỗi rãi đọc chơi, thưởng lãm cho tôi và cả linh hồn người quá cố thì cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Hoặc ai đó có chê bai coi thường khinh rẻ như kiểu cộng sản thì cũng chẳng sao.
12.5.2011 Lu Hà
Kính Tặng Hương Hồn Hữu Loan
Có Ai Thắp Nén Hương Sầu Cho Tôi
chuyển thể thơ Hữu Loan: Màu tím Hoa Sim
Phận là gái ba anh bộ đội
Xa gia đình ở mãi chiến khu
Em trai còn bé ngây thơ
Vẫn chưa biết nói mẹ già em thương
Tôi Hữu Loan người chồng vệ quốc
Đợi chờ em mái tóc còn xanh
Kết hôn ngày đẹp tháng lành
Không đòi áo cưới, yêu anh trọn đời
Tôi tranh thủ mấy ngày vội vã
Đôi dày đinh tầm tã hành quân
Bùn lầy lưá tuổi đang xuân
Em cười xinh xắn tâm hồn ngất ngây
Chàng độc đáo em say giản dị
Tình vợ chồng đắm đuối yên vui
Cưới xong rồi phải ra đi
Mấy ngày nghỉ phép ngậm ngùi trăng suông
Vẫn ái ngại tào khang nồng thắm
Gái có chồng ảm đạm chiến tranh
Cuộc đời vệ quốc chiến binh
Biết đâu vĩnh biệt khi mình hy sinh
Cũng khối kẻ rừng xanh núi đỏ
Nắm xương tàn cổ độ trăng thu
Linh hồn lạc lối quê nhà
Tìm người vợ trẻ sớm chiều mưa rơi
Nhưng không chết người trai khói lưả
Mà chết người em gái hậu phương
Em tôi một buổi bên sông
Cuốn trôi rờn rợn thê lương não nùng
Tôi xin phép về làng thăm mộ
Mẹ tôi ngồi lã chã thương đau
Chiếc bình hoa cưới ngày xưa
Muội tàn bám lạnh tối chiều âm u
Thương mái tóc vẫn chưa tròn búi
Vội ra đi sầu tủi hoàng hôn
Ái ân chưa trọn trăng tuần
Để anh côi cút tấm thân phong trần
Vẫn chưa thuả lời trăn ý trối
Dặn gì nhau lần cuối em ơi!
Ngày xưa đồi tím sương rơi
Áo em cũng tím lòng tôi ngẹn ngào
Tôi nhớ lại đèn khuya vắng vẻ
Một mình em vá áo cho chồng
Miệt mài trọn cả đêm trường
Bát cơm miếng nước tình thương dạt dào
Chiều đông bắc rừng mưa u ám
Ba người anh thê thảm bi thương
Cái tin em gái trôi sông
Đi nhanh hơn cả lấy chồng mừng vui
Gió thu sớm ngậm ngùi nước chảy
Dòng sông quê bàng bạc trăng non
Em trai mới lớn nhìn lên
Ngỡ ngàng ảnh chị lệ tràn bờ mi
Gió hiu hắt mây trời bảng lảng
Chiều hành quân qua những đồi sim
Cỏ vàng héo uá trong tim
Nỗi buồn day rứt âm thầm tôi đi
Muà sim chín lòng tôi tha thiết
Cảnh chiều hoang biền biệt Ninh ơi!
Ai hò biển lá xa xôi
Vô tình ác ý giưã đời thương đau…
Chiều hoang tím vàng thu không rứt
Tôi ngân nga da riết lời ca
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu…
Muà sim chín càng đau rớm lệ
Gió thông reo tê tái hồn thơ
Nấm mồ cỏ dại hoang vu
Có ai thắp nén hương sầu cho tôi!
20.3.2010 Lu Hà
Tỏ lòng ngưỡng mộ thương nhớ tới thi sĩ Hữu Loan
Tôi Khóc Thương Anh
Kính viếng hương hồn thi sĩ Hữu Loan
Tôi khóc nhớ anh một nỗi thương
Hỡi người thi sĩ cuả quê hương
Vì ai khổ lụy màu hoa tím
Nga Lĩnh người ơi, dưới suối vàng
Từ giã cõi đời anh vẫn đau
Nỗi đau dân nước gói trong thơ
Giang sơn gấm vóc đang chìm đắm
Bởi kẻ vô tâm bóng ác tà…
Anh đã đi rồi theo bóng trăng
Mênh mông sầu thảm cả đại dương
Hôm nay u ám trời mây tối
Tầm tã mưa rơi những suối lòng
Anh đã thản nhiên trong áo quan
Rung ring sương rụng những đồi sim
Ngàn thu yên giấc sầu thiên cổ
Để lại trên đời những trái tim.
Vĩnh biệt ra đi hỡi Hữu Loan
Phiêu diêu cảnh giới những linh hồn
Nhân văn giai phẩm ngày xưa ấy
Bè bạn tìm nhau chốn cửu tuyền.
7 giờ 15 phút 19.3.2010 Lu Hà
Nhớ Đồi Tím Hoa Sim
Kính tặng nhà thơ Hữu Loan
Gió sớm hương về một nắng thu
Bâng khuâng tâm dạ giọt sương chiều
Thương chàng thi sĩ dòng sông mã
Nhớ vợ hồn ma hẹn bóng chờ
Tôi biết rằng anh khóc đã nhiều
Nỗi niềm đau khổ xuốt canh thâu
Trái tim thi sĩ tình trong trắng
Hồn đã ghi sâu tấm mộng đầu
Tôi đọc bài thơ của Hữu Loan
Tấm lòng thương vợ với thi nhân
Gọi anh như thuở ngày xưa đó
Khắc ở trong tim một nỗi buồn
Tôi đọc bài thơ cũng nghẹn ngào
Thương anh vệ quốc cuả ngày xưa
Hành quân ngang trái muà xim chín
Tím cả lòng anh những buổi chiều
Anh khóc vợ anh em gái yêu
Tình nàng dấu kín lúc khi nào
Mẹ Cha dạm hỏi mà chẳng biết
Như trái tim non trái chín muà
Từ chiến khu ba anh đã về
Không đòi áo cưới gái làng quê
Hương thơm giản dị màu xim tím
Thơm mái tóc xanh hẹn nỗi thề
Mấy ngày nghỉ phép cưới là đi
Đọng lại môi anh một nụ cười
Thương em gái nhỏ chiều quê ấy
Trằn trọc mưa rừng nỗi nhớ thôi
Anh biết làm sao được hở trời
Dòng sông rờn rợn quấn em đi
Lưả tình đôi lưá muà xim chín
Chẳng trọn tuần trăng hẹn lỗi rồi….
Anh chạy về thăm bóng xế tàn
Mẹ ngồi mộ tối khóc bên con
Bình hoa ngày cưới tàn đông lạnh
Mái tóc còn xanh buí chưả tròn
Số kiếp loài người bạc thế sao?
Thương anh vệ quốc thuở khi nào
Phu thê chăn gối chưa tròn tháng
Sầu đã rã tan một cánh bèo
Nặng nghĩa ân tình một trái tim
Bài thơ muôn thuở nấc nguồn cơn
Thương đau cho dấu đồi xim tím
Nhớ hẹn chiều quê lúc xế tàn
Nếu phải một đời đi vắng xa
Tình quê nam việt vẫn bao la
Hôm nay ngồi đọc đồi xim tím
Vương vấn lòng ai nỗi nhớ nhà….
ngày 24 tháng 8 năm 2008
Lu Hà
Vịnh Hữu Loan
Kính hoạ
Cuộc thế tàn suy trọn kiếp đời
Anh thư tiết tháo thuở dong chơi
Tâm hồn thi sĩ hoàng hôn thảm
Đồi tím hoang vu gió vẳng lời
Rờn rợn trăng soi dòng nước chảy
Bơ vơ tăm cá cánh bèo bơi
Trúc mai tùng bách còn xanh nở
Ngào ngạt hương thơm cúc giưã trời
20.3.2010 Lu Hà
Tình Quê
chuyển thể thơ Hữu Loan: Hoa Luá
Hương ngào ngạt đồng xanh hoa luá
Đôi mắt nhung chan chưá người ơi!
Mênh mông thăm thẳm chân trời
Cay đa giếng nước bồi hồi tình quê
Trải gió bụi sơn khê vạn nẻo
Nhạc quê hương cổ độ trăng lên
Xôn xao chim chóc vang ngân
Lời ca như thể mưa ngàn suối reo
Gió thu sớm vi vu thánh thót
Để lòng anh tha thiết hội muà
Đánh đu vật trụi cuộc cờ
Dân ca quan họ mặn mà xa bay
Trai với gái thôn đoài thôn thượng
Ván thăm thuyền một mảng trầu cau
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Núi bát ngát sông đầy hương nội
Khói sương lam phủ mái nhà tranh
Ngân hà một khoảng trời xanh
Mười mong chín nhớ cho mình yêu nhau
Cầm bàn tay đậm đà ân ái
Tuổi hai mươi một trái tình si
Ngực căng mắt biếc xa xôi
Tràn đầy nhưạ sống tuổi đời trắng trong
Một toà ngọc hiền lương đắm đuối
Thương quê hương bất diệt tình em
Tào khang trọn nghiã tình thâm
Răng long tóc bạc thì thầm thông reo
22.3.2010 Lu Hà
Thưa Anh Vương Ngọc Minh, cái điều Anh tâm sự thành thơ và tôi cũng dùng thơ để tâm sự lại cùng Anh. Theo tôi bài thơ Màu Tím Hoa Sim hay là bởi chữ tâm. Lối viết giản dị nông dân cuả Hữu Loan đã khoan sâu vào lòng người dân Việt Nam. Hữu Loan chỉ có một cô Đỗ Thị Lệ Ninh người vợ mới cưới chết đuối trên sông và cũng chỉ có một Màu Tím Hoa Sim độc nhất vô nhị. Hữu Loan không có nhiều cô Lệ Ninh chết đuối nưã để khóc thành thơ. Định mệnh thật trớ trêu, nghe nói vợ Tố Hữu cũng đã từng yêu Hữu Loan. Tố Hữu vì ghen tuông biết vợ chỉ có Hữu Loan trong lòng.Bài thơ Màu Tím Hoa Sim như cái tát vào mặt Tố Hữu. Vì lý do cá nhân và bài thơ này quá bi lụy thương đau . Theo Tố Hữu là tiểu tư sản phản động,cản trở cho cuộc đấu tranh giai cấp. Nên Tố Hữu đày đoạ Hữu Loan để trả thù cá nhân, „Nhất tiễu song điêu „vưà trả thù riêng vưà đánh cả nhân văn giai phẩm. Hữu Loan bị khổ nạn là như vậy đó, đóng gạch, thồ đất, con cái bị trù dập khổ lây là một điều dễ hiểu. Cho nên bài thơ này người ta mua lại với lý do tế nhị để giữ bản quyền chỉ có 100 triệu đồng theo tôi vẫn còn ít. 100 triệu đồng VN khoảng 5 ngàn € tương đương tháng lương cuả một kỹ sư bình thường ở các nước văn minh, ngoài ra còn phải đóng thuế 10 cho nhà nước là 10 triêụ đồng VN. Nhà nước cộng sản đã đày đoạ ông xuống tận cùng cuả kiếp ngưòi còn muốn kiếm chác thêm ở con người khốn khổ này 10 triệu đồng nưã thì thử hỏi là cái giống gì? 90 triệu còn lại chia đều cho 10 đưá con là 60 triệu. Hữu Loan giữ lại 30 triệu để phụng dưỡng tuổi già. 30 triệu khoảng 1500 € (1500 € bằng lương thất nhiệp cuả một ngưòi lao động ở các nước văn minh ). Nghe vậy cũng đủ ưa nước mắt rồi Anh Minh ạ. Câu hỏi cuả Anh rất đúng không sai, và tôi đã làm thơ tâm sự trả lời Anh
Chúc Anh và Gia Đình bình an
Ngàn Năm Vẹn Tròn
Tâm sự cùng Vương Ngọc Minh
Ông Hữu Loan bước vào lịch sử
Bởi cuộc đời sầu tủi bi thương
Giưã bầy lang sói điên khùng
Tinh thần kẻ sĩ ngang tàng có hay
Cõi trần thế si mê tăm tối
Ánh hào quang sáng chói những ai?
Hữu Loan là một con người
Trái tim lương thiện ngậm ngùi thương đau
Màu sim tím xót xa rỏ lệ
Mái nhà tranh bi lụy tình quê
Xanh lam dặm nẻo sơn khê
Ru hồn dân tộc tái tê nỗi niềm
Thương Hữu Loan thương luôn màu tím
Tình vợ chồng đỏ thắm trái tim
Cái hay là bởi chữ tâm
Phải đâu nghệ thuật ngàn năm vẹn tròn….
21.3.2010 Lu Hà
Mộng Ghi Văn Miếu
Xuân động đầu muà nỗi ngóng mong
Diệu càng mê mẩn tháng ngày trông
Đồng duyên luyến aí nàng thơ cóc
Tính chẳng tròn năm tấm mộng vàng
Luyến aí tình chàng vẫn ngẩn ngơ
Ái ân chẳng trọn tháng ngày mơ
Hoàng hôn lững thững ra hàng bún
Tử tuyệt giống nòi ngâm tứ thơ
Mộng mơ thi sĩ vào văn miếu
Du khách cầu xin quả rụng rơi
Loạn cả dương trần loài ếch nhái
Tình như nước ốc nhạt như vôi
Tuyệt thế giai nhân một áng thơ
Tử tôn nòi giống thiếu ngâm nga
Vô tiền khoáng hậu mong thành đạt
Đạo đức vô thần nghĩ mà đau
Thế giới bàng hoàng trận gió âu
Kỷ nguyên hy vọng nước thay màu
Văn bút thi nhân đòi mở khoá
Thơ thẩn kià ai vẫn đứng ngơ
Tuỉ hờn vong bản lũ vô loài
Nhục nhã sao cho một kiếp người
Mãi quốc buôn thơ là tội lỗi
Sao đành nhắm mắt mãi xu thời? ? ?….
Mượn tiếng thi nhân chàng viết thơ
Một mình ôm ấp tấm thân trơ
Nghe theo lời đảng gieo hoang tưởng
Chi bộ phân công mất tự do
Mượn gió bẻ măng chàng thét to
Tình yêu đảng bác mộng hung đồ
Thương nhau xin chớ quên công vụ
Ủy mị là theo lũ thối tha
Thơ văn nhạt nhẽo suối tuôn mưa
Hoàng tử làm thơ thật thế sao ?
Cổ động tuyên truyền theo chỉ thị
Chủ chương tuyên huấn duyệt văn nô
Thiên hạ dần dần mở mắt to
Tình người chẳng có vắt ra thơ
Lưà bao bạn trẻ tranh nhau đọc
Văn miếu mộng ghi hàng chữ to
Lời vàng chân thật nhắn cho ai
Chẳng phải phô danh ngạo nghễ gì
Văn bút phải đâu quyền độc chiếm
Tình người muôn thuở dễ ai hay?
Tôi muốn hỏi ai tới cửu trùng
Băn khoăn trăn trở suốt năm dòng
Giận cho ma quỷ đưa đường lối
Dìu dắt thanh niên lạc nẻo đường
Tôi viết ra đây nỗi chán chường
Hỡi chàng hoàng tử tiệt sinh trùng
Nhà thương áo trắng mùi cồn thuốc
Màu trắng say xưa chẳng dõi dòng…
Mộng ghi văn miếu hãy quên đi
Tình ái phải đâu ở chốn này
Chiêu thức thơ tình đâu phải lối
Duyên tình mệnh bạc mộng cuồng si
2008 Lu Hà.
0
0
 
Rate This
Posted in: Lu Hà