“… -Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đối với thơ tôi.
-Tôi khâm phục tài năng và ý chí của nghệ sĩ Đặng Đình Hưng. Đối với tôi, cuộc đời anh Hưng là một bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật.
-Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lãnh vực triết học. Trần Đức Thảo đã góp phần khẳng định vị trí tiên phong của đội ngũ trí thức cách mạng kiệt xuất và hùng mạnh.
-Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất.
-Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỷ 20.
-Sau Quang Dũng và Hoàng Cầm, Trần Dần cũng là cây bút hạng nặng.
-Ngoài ra phải kể thêm Hữu Loan, Lê Đạt và Phùng Quán, ba nhà thơ ba vẻ khác nhau nhưng cùng sạu sắc, nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn.
-Nhà văn Phùng Cung cũng cần phải được minh oan cùng với truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh”. Không có ẩn ý gì xấu như 40 năm trước đã bị một số người lầm tưởng”.
Nếu không có lời ghi chú đoạn văn trên trích từ: “Nhật Hoa Khanh, Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng, không ghi nhà xuất bản” và sau đó là lời bình của ông Tưởng Năng Tiến:
“Mô Phật! Cuối cùng thì Tố Hữu đã buông đao, sau khi đã làm cho vô số cuộc đời bị “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đày” – nếu nói theo lời Phùng Quán” trong bài viết “Phùng Cung giữa trăng sao và mộ chí” thì phải nói là tôi không dám tin là nhà thơ VC Tố Hữu, con chim đầu đàn của nền văn chương cũi sắt của Việt Cộng lại có thể muối mặt nói dối không biết ngượng miệng như thế về các nhà thơ, nhà văn đã từng là nạn nhân của ông ta.
Như mọi người đều biết thì khi vụ Nhân văn Giai phẩm xảy ra, Tố Hữu là người chỉ đạo công tác tư tưởng và văn hóa văn nghệ thời bấy giờ,phụ trách việc đấu tố triệt hạ nhóm “Nhân văn – Giai phẩm”.
Sau khi Phạm Huy Thông, tiến sĩ, một trong những trí thức hàng đầu miền Bắc lúc bấy giờ viết bài “Một triết gia phản bội chân lý: Trần Đức Thảo” đăng trên báo Nhân Dân, số ra ngày 4-5-1958, lúc cuộc đấu tố bước vào thời kỳ cao điểm.
Sau khi nói xấu Trần Đức Thảo đủ điều, Phạm Huy Thông xoay ra “chụp mũ, quy kết chính trị” cho nhà triết học này:
“… Mùa Thu 1956, Thảo tưởng thời cơ đã đến. Từ số 3 trở đi, báo Nhân văn chuyển hướng sang chính trị một cách rõ rệt. Bài “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ” của Trần Đức Thảo được đăng trong số báo ấy, mở đầu cho sự chuyển hướng và được nhóm Nhân văn coi như cương lĩnh của mình. Trần Đức Thảo ở trong đại học và ngoài đại học lúc nào cũng lớn tiếng đòi trả chuyên môn, đòi trục xuất chính trị ra khỏi chuyên môn… Qua thư của Hoàng Cầm và nhiều tài liệu khác nữa, cho thấy đường lối chính trị của nhóm Nhân văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và chủ yếu vạch ra.”
Ta thấy rất rõ ông trí thức Phạm Huy Thông đã tự đánh mất liêm sỉ tối thiểu của một nhà trí thức khi dựng đứng lên những chi tiết mà chỉ cần đọc lướt qua , ai cũng thấy ngay là bịa đặt.
“Cai thầu văn hóa, văn nghệ” Tố Hữu đã tiếp tay Phạm Huy Thông để “đánh” Trần Đức Thảo một cách tàn khốc và cật lực:
“… Chúng vu khống Đảng ta là ‘chủ nghĩa cộng sản phong kiến’ bóp nghẹt tự do, chúng vu khống những người cộng sản là ‘khổng lồ không tim’ chà đạp con người… xuyên tạc những quan hệ gai cấp trong xã hội. Trần Đức Thảo cũng đã cố tạo thế đối lập giữa lãnh đạo ‘kìm hãm tự do’ và quần chúnh lao động ‘đòi tự do’… Tất cả những luận điệu của chúng rõ ràng không nhằm mục đích nào khác là chống lại lợi ích của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, kích thích chủ nghĩa cá nhân thối nát, tạo nên miếng đất tốt cho những hoạt động khiêu khích, phá hoại của chúng, hòng làm thất bại cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc…” (Tố Hữu: Báo cáo tổng kết cuộc tranh đấu chống nhóm phá hoại “Nhân vaăn –Giai phẩm” trong hội nghị Ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học-Nghệ thuật Việt Nam họp lần thứ III tại Hà Nội, ngày 4-6-1958).
Đó không phải là lần nhắc đến tên Trần Đức Thảo duy nhất trong bài nói của Tố Hữu. Ở một đoạn khác, Tố Hữu nói:
“… Trần Đức Thảo cố bịa ra cái “hạt nhân duy lý”, là một hỏa mù cốt để xoá nhòa ranh giới giữa cái đúng và cái sai, giữa cách mạng và phản cách mạng…”(Bđd).
Và cuối cùng, như một công thức bất di bất dịch để đúc kết các bài viết, bài nói, Tố Hữu kết luận:
“… Lấy đường lối văn nghệ của đảng Lao động Việt Nam làm vũ khí chiến đấu, giới văn nghệ chúng ta hãy tiến lên, tiêu diệt tận gốc đường lối văn nghệ phản động của nhóm Nhân văn – Giai phẩm” (Tố Hữu, Bđd).
Số phận của nhóm Nhân văn – Giai phẩm, trong đó có triết gai Trần Đức Thảo, đã được định đoạt: mất quyền công dân, bị tước đoạt tất cả, bị cưỡng bức lao động ở một vùng quê.
Nhiều năm sau ông Trần Đức Thảo mới được trở lại Hà Nội, sống nghèo nàn với tài sản đắt giá nhất là chiếc xe đạp cũ kỹ. Vợ ông Tiến sĩ Tâm lý Giáo dục Nguyễn Thị Nhì, bị áp lực của Đảng và Nhà Nước đã ly dị ông để kết hôn với Nguyễn Khắc Viện, một người bạn thân của ông hồi ở Pháp. Bác sĩ Viện lúc ấy đang là con cưng của Đảng.
Nhà nghiên cứu Triết học Marxist, giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo đã sống trong tăm tối nghèo khổ cùng cực trong suốt 30 năm.
Sau khi Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền và tung ra chiêu bài cởi mở năm 1987, ông Thảo mới được viết trở lại. Lúc này ông đã già. Năm 1991, ông được cho qua Pháp ngắn hạn. Hết hạn, ông vẫn ở lại, sống vô cùng túng quẩn. Bị cúp tiền, ông lén nấu ăn lấy thì bị cúp gas, cúp điện. Thấy vậy, Hội những Nhà khoa học Pháp (Société des Hommes de Sciences) để tỏ lòng ngưỡng mộ đã quyết định trợ cấp cho ông vô hạn định mỗi tháng 10.000 Francs (khoảng 2.000 USD). Nhưng ông vừa nhận được tấm ngân phiếu đầu tiên vào hôm trước, thì hôm sau ông qua đời.
Cái chết của triết gia Trần Đức Thảo đã để lại cho chúng ta một tấm gương của một nhà trí thức không cúi đầu trước sai lầm của những người đang nắm giữ quyền lực. Và qua cái chết của ông, trong hoàn cảnh vô cùng túng quẩn đã cho mọi người thấy sự giả trá, bịp bợm cùng cực của Cộng sản Hà Nội qua bản thông báo của họ: “Được Đại sứ quán của nước ta tại Pháp tận tình chăm sóc…” Câu nói láo trắng trợn này được Đại sứ Hà Nội Trịnh Ngọc Thái đọc lên một cách hết sức trơn tru khiến người ta phải nóng mặt.
Lại càng nóng mặt hơn khi nghe Tố Hữu giở giọng “đĩ già đi tu” nói láo một cách trắng trợn, thô bỉ về những người thuộc nhóm Nhân văn – Giai phẩm đã bị chính mình làm cho cuộc đời bị “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đày”.
“… Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong lãnh vực triết học. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần khẳng định vị trí tiên phong của đội ngũ trí thức cách mạng kiệt xuất và hùng mạnh”.
Đúng là nói dối như… Tố Hữu!
LÃO MÓC
Đăng trong LÃO MÓC
Be the first to like this post.
——————————
Sáng giăng cháu nghĩ tối trời
Cháu ngồi cháu để cái nợ dời cháu ra
Gặp đám Bộ Đội xông pha
Chúng đè cháu xuống chúng đút mả cha chúng vào
“Bác” Hồ hỏi những thằng nào ?
Cháu thưa toán đám văn hào Cộng quân
Tên Chế Trung Hiếu tụt quần
Nó làm chớp nhoáng nó vàn hả hê
“Bác” Hô cấm bút rồi phê :
“Điều tra cho kỹ giống dê hại người”
“Gái ngon riêng của tao thôi”
“Chúng mày mà muốn vào chơi Sàigòn
Ngã ba Chú Ía nhiều con
Tiền trao cháo múc vuông tròn nghe chưa
Của tao không được bóp rờ
Cho đi ải tạo mút mùa nghe con
Chủ Tịch Nước VNDCCH
Hồ Chí Minh
Từ ấy trong tôi đầy bóng tối
Mặt trời vụt tắt nhói qua tim
Tâm hồn tôi rụng tàn hoa lá
Rất nhạt hương và vắng tiếng chim
Từ ấy quê hương mất tự do
Không còn tiếng hát với lời ca
Vẳng nghe tiếng sáo diều đi mất
Cách mạng sôi lên lửa hận thù
Từ ấy trong tôi lệ ứ tràn
Nhà tranh vách lá nỗi cô đơn
Quê hương ruồng rẫy đời khinh bạc
Từng đoàn hành khất chốn nương thân
Từ ấy ra đi cha mất con
Cảnh nhà tan tác tím bầm gan
Chồng đi cải tạo vành khăn trắng
Đấu tố sưả sai đỏ máu tràn
Từ ấy trở đi cắn xé nhau
Xóm làng xơ xác cảnh tiêu điều
Vu oan tố khổ hòng thêm lợi
Thân đổ đầu rơi những luống bưà
Từ ấy ruộng vườn bị tịch thu
Ép vào hợp tác gạo ăn chia
Đêm đêm từng tổ bình công điểm
Cãi vã tranh dành cho ấm no
Từ ấy làm chi có nắng về
Trần gian điạ ngục rợn đồng quê
Chuyên viên cố vấn từ trung cộng
Tăm tối một màu thương thảm thê
Từ ấy chia ly và vĩnh biệt
Kẻ nam người bắc nhớ nhau hoài
Dòng sông bến haỉ đôi bờ cách
Vĩ tuyến nhát dao chém giưã đời
Từ ấy xa nhà đi thoát ly
Mẹ cha mòn mỏi tháng ngày trôi
Vợ hiền bóng nhỏ từng đêm lẻ
Con khóc thân gày không sưã nuôi
Chẳng hiểu làm sao lại dễ tin
Đi làm cách mạng cứu nhân dân
Hy sinh tính mạng cho tổ quốc
Ác quỷ hồn ma thấm đỏ dần
Ngày đó con tôi tuổi học trò
Chim non bé nhỏ mộng hồn mơ
Hai vai buộc chặt khăn quàng đỏ
Nhuộm cả thơ ngây cả daị khờ
Lớn lên tuổi trẻ laị lên đường
Thẳng tiến miền nam giải phóng quân
Dấn thân lầm lẫn vòng tranh chấp
Ngày ấy tim tôi đã nguội tàn
Tôi có đôi lời nhắn bạn thơ
Gưỉ về âm phủ quãng đường xa
Ai ơi có hiểu nơi trần thế
Từ ấy ngày xưa thành bóng ma
Từ ấy trong ai bừng nắng hạ
Mặt trời xú uế chói qua tim
Tâm hồn ai một vườn đầy xác
Rất thảm thương và rợn tiếng rên
Ai để hồn ai bức mọi người
Gây bao tội ác ở muôn nơi
Để hồn ai với bao tòng phạm
Xa cách nhau thêm nợ với đời….?
Đức quốc ngày 19 tháng 5 năm 2008
Trúng Quả Đậm
Có sứ lạ quanh năm tăm tối
Bỗng lửa hồng le lói đêm đông
Chúng sinh mở mắt hãi hùng
Nghêu ngao tiếng trẻ thần đồng giáng sinh
Trong mê muội nhân danh thi sĩ
Tranh đua nhau huyền bí vô cùng
Hang cùng ngõ hẻm vội mừng
Reo ca xem mặt thần rừng hiển dương
Quay cuồng loạn núi sông ngừng chảy
Lắng tai nghe thủng thẳng ma già
Phán rằng phát tiết anh hoa
Chưa tròn tám tuổi lá đa thơ thần
Con cóc lớn khen con cóc nhỏ
Cả một bầy léo nhéo khoe khoang
Dắt nhau đến cửa thiên đàng
Ngọc hoàng bịt mũi mấy thằng cút ngay
Đưá nào xông thối lên đây
Chư tiên phải ngửi mấy ngày chẳng tan
Thơ với phú tự nhiên sẽ có
Biết yêu hoa lặng chớ đừng sờ
Lũ bay la lối pha trò
Măng non ngắn ngủi thẹn thò héo hon
Cứ dối trá thân tàn ma dại
Cả một đời khen đại bơm nhau
Sứ mù thằng chột làm vua
Thi nhân bạc đãi nhà tù khảo tra
Muốn sống sót bảo nhau câm miệng
Biết thân hèn ngậm họng mà ăn
Văn chương thơ phú cửa quyền
Mấy cai văn nghệ chủ nhân lái lèo
Theo kế hoạch trồng cây gây quả
Tỉnh Hải dương em nhỏ tài hoa
Tranh nhau đệm khúc thái hoà
Vầng dương nhân tạo bài ca vô loài
Thày với tớ một bầy xa lạ
Trong kỷ nguyên thiên hạ văn minh
Trói chân buộc cẳng dân tình
Phụng thờ lý tưởng quang vinh đại đồng
Cho bé đi xuất dương tầm đạo
Sáu năm trời sứ sở Nga xô
Phen này thơ nở hoa chào
Dân sinh xã hội mặn mà ngợi ca
Trái quả đắng bí thơ tối nghiã
Sạn chai đầu sỏi đá thành văn
Chiêu ma kể chuyện tiếu lâm
Lân la nhà báo cửa quyền kiếm ăn
Bao nhân vật huyền thần bí sử
Khéo moi ra cánh cửa tò mò
Dân nghèo câm điếc đã lâu
Tranh nhau mua đọc trúng muà văn chương
2008 Lu Hà
Xin Chị Đừng Viết Nưã
Nghe chị Thu Hương cũng viết văn
Cái tài ngoáy đít kiếm cơm ăn
Sáu mươi năm lẻ xuân vừa tái
Theo đóm ăn sương buổi xế tàn…
Giả đò chống cộng cũng như ai
Vưà chống vưà che rõ mặt này
Quốc ngoại đồng bào ve vãn khách
Luồn trôn bôi nhớt đã quen tay
Cuộc thế bây giờ có đổi thay
Nào ai ngái ngủ giưã ban ngày
Đỉnh cao chói lọi văn bồi bút
Chồn cáo già nua đã lỗi thời…
Kẻ ấy Hồ Ly lỡ khắc tinh
Tội nhân thiên cổ hận trời xanh
Ngàn thu u ám sầu xương tủy
Cố đấm ăn xôi đánh bóng hình
Viết sách mua vui để gạt đời
Khóc thương chế độ đám ma chơi
Bao năm theo đảng cho tàn phế
Pháo mã tượng xe đã mất rồi…
Thí tốt non sông giữ tướng bà
Bàn cờ canh bạc với ma Hồ
Công an việt cộng trò ma quái
Gửi chị Thu Hương khéo nõn nà…
Tớ cũng chân thành nhắn mấy câu
Gửi người cuồng tín nuối trăng hoa
Văn chương lèo lái cho ai thế
Hải ngoại dân mình đâu dễ ngu?…
3.8.2008 Lu Hà
Đỉnh Cao Tăm Tối
Cậy có tí văn chương bồi bút
Trường Nguyễn Du chăm chút tôi đòi
Sông pha giưã chốn bụi đời
Kiếp thân nô bộc lạc loài biết chưa?
Nơi hải ngoại bôn ba kiếm chác
Giọng Thu Hương cục tác đong đưa
Gái già ăn quẩn cối ma
Bôi tro trát phấn mặt thoa da mồi
Thân xác đó một thời dê cáo
Tiếc làm chi thảm hoạ lầm than
Lão già hãm dục cô thân
Hư danh đạo đức sói mòn tuổi xanh….
Nay có kẻ răng nanh mỏ đỏ
Lưỡi cú diều tráo trở nịnh khen
Cả đời yêu nước thương dân
Tội nhân thiên cổ đàn em gánh dùm
Khéo đun đẩy giật giàm bấu víu
Vững lòng tin phe lũ lọc lưà
Theo đòi chủ nghiã ba xu
Cúc cung tận tụy ngọn cờ đảng treo
Cơn sóng hận vụng chèo khéo chống
Nhiệm vụ trao chiêng trống ly khai
Mưu toan kế sách con bài
Nưả trong thì đỏ nưả ngoài thì xanh
Chửi mấy đưá tội danh sẵn có
Lũ đàn em chó má côn đồ
Thông tin dư luận cơ hồ
Không che được nưã thì ta thẳng thừng
Thà thí tốt qua sông cứu Chuá
Vẫn mẹo xưa tà đạo hoang dâm
Đỉnh cao chói lọi cò văn
Văn chương hiện thực điếm đàn nhục thay
3.8.2009 Lu Hà
Thương tiếc cho Anh
Nuối tiếc cho xuân quá nửa tàn
Thương chàng thi sĩ lỡ trăng non
Thơ hay là bởi do nhân tính
Đâu có trường nào dạy viết văn….
Họ đã dắt anh đến cổng trời
Vô tình đạp ngã xuống âm ty
Cây đa rụng lá chiều thê thảm
Thơ thẩn hồn ma sợ bóng người
Nhớ thuở hồn nhiên tuổi ấu thơ
Hương bay thiên phú đoá hoa mơ
Tình quê cánh vạc ru con ngủ
Hạt gạo làng em đã gặp muà…
Xuân Diệu lăng xăng chăm bẵm Khoa
Lan Viên Tố Hữu lái đưa đò
Thuyền trăng sóng nước say hồn bướm
Giưã chốn biển khơi đắm mịt mù….
Cứ tưởng học nhiều nâng cánh cao
Bao nhiêu lý luận nhét sao vưà
Châu âu sứ lạnh đuà ma quái
Nối bước hồn tiên theo bóng Nga
Muốn viết thơ hay có khó gì
Yêu từng ngọn cỏ gió heo may
Trong tim không chưá bao thù hận
Chân thật xót thương mọi kiếp đời
Thế kỷ đau thương ôi thế gian
Nhân tình bạc bẽo với thi nhân
Bẻ cong ngòi bút khoe gian dối
Văn phịa phì gia giữ phú quyền…
Thơ chết lâu rồi có biết không?
Chân dung đối thoại rõ văn chương
Thị trường kinh tế đua thời thế
Hành tỏi tương gừng mua bán dong
Dưạ trí nhân sinh trong tối tăm
Lập loè đom đóm suốt đêm tàn
Vô tiền khoáng hậu sao ranh thế
Chia chác cùng nhau dễ kiếm ăn….
Đưa chuyện văn thơ ra kéo co
Vừa xoa vừa đấm khéo hay trò
Tò mò thiên hạ bầy câm điếc
Ngơ ngác hầu bao dễ kiếm sao?…
Thiên phú ngày xưa để ở đâu?
Thần đồng phát tiết khí anh thơ
Trái tim lầm lỡ nên ra nỗi
Kể chuyện tầm phào cũng bẫm to…
Đáng tiếc cho ai nửa cuộc đời
Hồn thơ nhân ái chết tươi rồi
Rèn văn luyện chữ tung chiêu quái
Tẩy rửa làm sao được hở trời…
2008 Lu Hà
Hoài công tìm mãi ở đâu xa
Thanh thoát hương rơi rụng bốn muà
Tố lan bạch diệp khoe màu sắc
Hữu ích vì ai một giấc mơ ?….
Xuân đến xuân đi xuân lại qua
Diệu còn mê dại áng xuân thu
Chế ngự tâm hồn bao kẻ khát
Lan hương hồng bạch dụi tàn thơ
Viên mãn gì đâu trận gió thu
Những oan nghiệp chướng cuả ngày xưa
Con thuyền chiếc bách theo dòng nước
Cóc nhái nhảy lên vẫn mộng mơ
Thơ phú đua chen một bóng ma
Đã qua giấc ngủ nhuộm tinh cầu
Lỗi con khỉ độc làm ông tổ
Thời thế đông Âu trận gió muà !
2008 Lu Hà
Hoài Thanh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên những con cóc thơ đã lỗi thời
Thơ phú làm chi cho khổ đời
Tình tang thơ ở chốn cung mây
Làm thơ ra để khen con cóc
Ếch nhái nhảy lên để nạt người
Thơ phú làm chi doạ chỉ tiêu
Sinh năm đẻ bảy khổ trăm chiều
Thi đua hai đứa là cao đấy
Tướng Giáp ra tay chặn đẻ nhiều
Thơ phú làm chi phải đấu tranh
Giệt loài địa chủ máu hôi tanh
Không còn tư bản thù giai cấp
Hợp tác làng quê vỡ mộng lành
Làm thơ bóp méo nâng quan điểm
Cha mẹ vợ chồng khổ vấn vương
Thơ phải khạc ra mùi súng đạn
Chữ sa gà đá mọt tù gông
Thơ ơi! Thơ khổ thế là thôi
Thơ tội thơ tình đày đọa ai
Chí Thiện giả cày trong tuỉ nhục
Thơ phun ra máu nhuộm hôi đời
Chính danh thi sỹ chết dần mòn
Truy bức đến cùng tự hoại thân
Quỷ sứ ma vương cười sặc sụa
Vui trên vũng máu của nhân quần
Có ai còn chẳng biết làm thơ
Thơ của người ta cứ nhận bừa
Tấm tắc khen hay trò bánh vẽ
Sổ thơ moi ở chốn lao tù…
Mấy thằng tú nhép học trường Tây
Vài chữ la lô cũng học đòi
Tiến bộ theo nhau đuôi cộng sản
Lời thơ bán nước nhục cho ai?…
Thơ nó chính là giọt lệ rơi
Nó là sản phẩm của trần ai
Của chung nhân loại tình nhân ái
Là để nhớ thương khóc với đời
Tâm địa tiểu nhân cũng thét vang
Khác chi cầm thú chốn rừng hoang
Gào lên đâm chém bầy man dại
Xây dựng thiên đường mộng viển vông
Câu thơ bóp méo bịt mồm dân
Giai cấp đấu tranh phaỉ rõ ràng
Đấu mãi thây ma thằng điạ chủ
Không còn gì nữa cháu chèn ông
Đầu vịt lá khoai chẳng dễ gì
Một khi đã thấm cọ không trôi
Mác Lê chủ nghiã như si đánh
Dày rách trơ ra vẫn cứ xài
Thế kỷ lầm than hận nhuốc nhơ
Bởi quân bá đạo độc quyền thơ
Thơ này là của chung cho Đảng
Tập thể đảng viên thơ mới to
Đường lối chủ trương một cục thơ
Anh Viên chú Hưũ cứ ngâm nga
Hoa đời nở rộ từ nòng súng
Thác máu rung rinh vọng tiếng ca
Kim cổ đời nay có loại thơ
Ngô nghê mách qué lũ côn đồ
Thơ tôn đao phủ thờ hung bạo
Đến quỷ sa tan cũng chẳng ngờ
Tớ chán lắm rồi loạn mất thôi
Cái thời nhân tính đã qua rồi
Bây giờ ngự trị loài yêu quái
Đày đoạ tang thương đất nước này
Tớ có mấy lời nhắn tứ phương
Gọi ngưòi viễn xứ chốn lưu vong
Hơĩ ai còn nhớ thương dòng máu
Đoàn kết cùng nhau giống Lạc Hồng
Làm thơ thì phaỉ có tình người
Liêm sỉ lương tâm giữ đẹp đời
Chớ có suả ra như chó dữ
Tôn vinh đao phủ Stalin.
Con ơi học nói tiếng đầu đời
Tha thiết yêu thương cụ Stalin
Bỉ ổi làm sao không biết ngượng
Gà nòi nọc độc mọc bào thai….
Còn muốn chia đôi cả quả tim
Như anh hàng thịt bán hàng buôn
Phần nhiều nửa nạc dành cho đảng
Nửa mỡ em yêu cũng có phần.
Thông minh trí tuệ như con trẻ
Mà cũng vênh vang ghế ủy viên
Dưới trướng lâu la bầy rắn độc
Thủ tiêu ám sát hại thường dân
Dùi cui súng đạn tôn thờ ông
Mạng lưới tuyên truyền chúng réo vang
Bồi bút đồng thanh hô thật lớn
Văn hào cách mạng nhất đông dương
Khổ lắm thơ ông như trẻ con
Bầm ơi lục bát lạc sai vần
Thêm mùi song thất vài câu ghẻ
Ông cứ cho in ép thuộc lòng
Tôi đọc thơ ông hiểu ruột ông
Tài năng ông quá kém tầm thường
Ông tham phú qúy màu danh vọng
Ăn quẩn gà cồ bên cối xay
Ông bức Trần Dần ép Hữu Loan
Bịt mồm trí giả haị hiền nhân
Sao ông tâm địa tiểu nhân thế
Để lại nghìn thu nỗi oán hờn
Tôi đã đi nhiều cũng đọc nhiều
Nghiền đi ngẫm laị biết bao điều
Dư thừa trí tuệ mà lên án
Tài hèn đức kém chớ làm thơ
Thơ phú làm chi để haị dân
Mấy lời bán nước tự ông khen
Thơ cùn rẻ rách tranh nhau đọc
Chỉ lũ văn nô không óc tim
Thực ra ông cũng chẳng làm nhiều
Tủn mủn tâm hồn khó có thơ
Cằn cỗi trái tim phun máu mủ
Văn hào đệ nhất tự mà khoe..
Khổ nhục vì thơ chỉ có ông
Tài năng kém cỏi mộng hoành dương
Khen cho cái muĩ nhiều anh điếc
Nhắm mắt tôn thờ gây tiếng vang.
Dòng thơ nước mắt của con tim
Biển khổ tâm hồn ôi chưá chan
Ai nỡ tát dòng đòi lấp biển
Như loài cầm thú mất nhân tâm
Bảo rằng: thơ chỉ để mà khen
Cộng sản thiên đường nhất thế gian
Tư bản phương tây là đồi bại
Đi sai là chống laị nhân dân
Thơ phú các ông như gãi ghẻ
Chính vì cấm đoán đủ trăm điều
Làm thơ còn sợ nâng quan điểm
Một thế kỷ qua không có thơ
Tôi muốn khui vào óc các ông
Phanh phui mổ xẻ những đường gân
Vì ai mà để gây ra tội
Thế kỷ văn chương nhục thế này
Biết đến bao giờ có tự do
Tình người ngay thẳng với hồn thơ
Không còn bắt bớ giam cầm nữa
Không sợ phanh phui cái xấu xa
Tha hồ mơ mộng với hồn thơ
Thi sỹ chính danh chẳng còn lo
Chế độ đàng hoàng không cấm đoán
Bẻ cong ngòi bút ép lời thơ?……
18.3.2008 Lu Hà
Bài này viết để tặng hồn ma Tố hữu
9.5.2011 Lu Hà
Được du học ở một nước văn minh tiến bộ như Pháp, thế mà ông TĐT vẫn không đủ trí tuệ để hiểu tự do dân chủ là gì, cho nên một là ông ta bị bịnh tinh thần hoang tưởng, hai là không đủ trí tuệ để phán đoán đúng sai, thực tế hay hoang tưởng, nên mới đi tin vào tên Hồ Chí Minh và đảng csvn, nên thì bị chết như thế cũng là đáng tội.
Phải chi ông TĐT đang sống tại MB VN, khi cs và tên HCM nổi lên ông ta không có đường lựa chọn, nên bị bắt buộc phải sống như thế. Đằng nầy lại tự chọn đâm đầu vào rọ, về VN, cũng ngu xuẫn giống như tên HCM tự xung phong tình nguyện làm lính cộng nô đi xây dựng cho bọn ngoại bang Nga Hoa, chứ có ai bắt tên HCM phải làm như thế đâu?
Nói ra sự thật có vẻ vô cảm với nỗi nhục buồn của ông ta, nhưng thực tế là thế. Vì TĐT chọn sai đường, tin nhầm đối tượng mà bị đày đọa, sống trong tủi nhục, chết nghèo vì chơi với thú bị thú cắn tay thì trách được ai?
Quan trọng là mấy thằng làm tuồng , giật dây , đứng trong cánh gà đạo diễn.
Tiếc cho một thế hệ văn hóa, văn chương Việt Nam, đã bị sự ngu dốt hủy diệt.
Từ ấy, trong tôi bừng thú vật.
Một bầy , đêm đến đứng tru trăng.
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:nJi7jMZWroQJ:baotoquoc.com/2011/05/08/noi-d%E1%BB%91i-nh%C6%B0%E2%80%A6-t%E1%BB%91-h%E1%BB%AFu/+N%C3%93I+D%E1%BB%90I+NH%C6%AF%E2%80%A6+T%E1%BB%90+H%E1%BB%AEU!&cd=4&hl=en&ct=clnk&gl=vn&source=www.google.com.vn