Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945


Một nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử đất nước, thường gọi là «Nạn đói năm At Dậu», đã làm chết trên hai triệu nông dân Miền Bắc Việt Nam vào đầu năm 1945. Cách nay giáp 60 năm tròn, nạn đói này đã thật sự xảy ra dưới con mắt bàng quan của quân đội phát xít Nhật và chính quyền thực dân Pháp từ cuối năm 1944 đến Tết At Dậu 1945 và kéo dài đến khoảng tháng 5 dương lịch. Cùng năm ấy, tổng số tử vong do bom nguyên tử Mỹ thả xuống Hiroshima (ngày 6/8) và Nagazaki (ngày 9/8) của Nhật là khoảng 200 ngàn người.Hằng năm, Nhật và thế giới vẫn làm lễ tuởng niệm cho vong linh những nạn nhân xấu số này. Số tử vong của nạn đói năm At Dậu cao gấp 10 lần hơn, cũng do chính bàn tay độc ác của ngoại bang gây ra, nhưng từ đấy đến nay, các chính phủ VN không có lấy một hành động nhớ tưởng nào. Kể cả những quyền lực thực dân và xăm lược có nhúng tay vào tội ác tầy đình này cũng ngoảnh mặt làm ngơ luôn. Lúc bấy giờ, ai nếu chẳng phải là chính phủ bảo hộ Pháp hẳn phải thấy trước tai họa lớn lao này, nhưng chẳng những họ không tìm cách ngăn ngừa nạn đói mà còn đẩy cho nó trầm trọng hơn. Chính phủ phát xít Nhật, xua quân chiếm đóng Đông Dương từ năm 1941 cho đến khi thất trận giữa năm 1945 và trong bốn năm ấy đã tận lực vét cạn tài nguyên của Việt Nam để tiếp ứng cho chiến trường Đông Á của họ, hẳn phải biết rõ họ là thủ phạm trực tiếp gây ra vụ chết đói kinh hoàng này. Thế nhưng, mãi cho đến nay, mọi chính phủ đều đồng lõa với nhau để lấp liếm tội ác diệt chủng khốn nạn này. Không một nhà nước nào còn chút liêm sỉ để nhận trách nhiệm lập một hồ sơ chính thức, một tư liệu minh bạch về nạn đói vô tiền khoáng hậu này cả!
CHẾT ĐÓI NGAY TRÊN «VỰA LÚA» LƯU VỰC SÔNG HỒNG
Ngày nay, nói đến nạn đói năm At Dậu, các bậc niên trưởng chỉ lắc đầu thở dài, ngao ngán nhớ lại cảnh chết đói thảm thương ghê rợn không bút nào tả xiết. Người người bất lực, nhà nhà bất lực, làng nước bất lực trước nạn đói, nói gì đến chống đói và cứu đói. Những hình ảnh hãi hùng vẫn còn in đậm trong ký ức họ. Như mới ngày nào đây thôi, họ bàng hoàng nhìn những tấm thân gầy đét, xơ xác, lây động từng bước chậm chạp trên con đường cái quan, trong lớp quần áo rách tả tơi, rộng quá cỡ, phất phơ trong gió bấc giữa một mùa đông rét mướt khác thường. Xa xa đằng kia, cũng những hình hài gầy guộc khô đét dìu dắt nhau đi, lung linh trong gió rét căm căm. Bên lề đường gần đó, vài tấm thân chỉ còn da bọc xương đang nằm thoi thóp dưới lớp quần áo nhàu nát, rên rỉ không ra tiếng, tay chân co quắp lại như những cành cây khô cứng, bất động chờ chết. Trước con mắt xót xa đến tê dại của người qua đường, những hình ảnh thê thảm ấy cứ thế diễn ra dồn dập mỗi ngày trên khắp các nẻo đường của lưu vực Sông Hồng, «vựa lúa» của Miền Bắc Việt Nam.
Quả vậy, lác đác đó đây trên bờ ruộng, giữa con đường làng, bên con đường cái quan, nơi góc cây, mõm đá, một hai ba, rồi hằng chục, hằng trăm cái thây ma ngã đổ sóng sượt, chồng chất lên nhau, chết khô chết cứng dưới lớp mưa phùn gió bấc da diết của mùa đông năm ấy… Người chết như rạ! Mùi hôi thúi nồng nặc phảng phất khắp hang cùng ngõ hẻm. Kẻ còn chút hơi tàn thì vẫn cố lê bước thê lương ra đi, đi mãi, để rồi khi kiệt sức lại lăn ra chết, không một tiếng than khóc, trước con mắt bàng quan của những chiếc thân gầy đét khác khập khểnh, tiếp tục lê chân đi kiếm ăn, và chờ chết…
Họ là ai? Họ là những người dân quê cần mẫn, làm quần quật suốt năm tháng trên khắp miền đồng bằng Bắc Bộ, nơi mà đất đai phì nhiêu lẽ ra phải sản xuất dư đủ lúa gạo khoai sắn nuôi sống bản thân họ. Nhưng lúc bấy giờ, lạ thật, họ không còn gì để ăn, sau khi đã ăn sạch dần khoai củ và các giống chó mèo, cóc nhái, rồi đến các bụi chuối, luống lang, giun dế để cầm hơi. Họ đành phải bỏ làng ra đi tha phương cầu thực, nhưng tới đâu cũng cửa đóng then gài, làng mạc xơ xác hiu quạnh, vì nhiều người cũng đã kéo nhau ra đi về các thị xã phố phường với chút hy vọng ăn xin được chút cơm thừa canh cặn. Nhưng không, người thành phố cũng vất vả kiếm cơm, khi mà lương thực khan hiếm một cách tồi tệ, do tiếp vận khó khăn vì bom đạn của Mỹ (còn gọi là đồng minh) đánh phá các đường vận chuyển, và do chính sách thu mua lúa gạo của nhà nước thực dân Pháp và phát xít Nhật để nuôi quân. Từng tốp người, từng đoàn người đói rách cứ thế lũ lượt lê bước trên khắp các con đường đổ về các thị xã, phố phường, thành phố Hà Nội.
Ngay như tại Hà Nội, sáng sáng người ta thấy xác chết nằm ngổn ngang trên các vĩa hè đường phố, nơi công viên, sát các bờ tường, nép bên ngõ hẻm. Đó là xác những người đói lam lũ đi xin ăn, đêm đến đói lả, nằm vật vờ ra đâu đó, rồi chết lịm luôn. Có người quá đuối mệt, ngồi tựa cửa ra vào các căn nhà dọc phố xá, nghỉ tạm qua đêm, rồi chết cứng luôn ở đấy. Sáng ra, người nhà mở cửa, đụng phải xác chết lăn kềnh ra giữa lối đi hoặc đổ ập vào trong nhà, làm họ phải một phen thất điên bát đảo, kinh hãi rụng rời tay chân. Ngày ngày, người ta phải đem xe bò đi hốt những xác chết đó đem đi chôn vùi vội vã ở những hố chôn tập thể.
Suốt chiều dài lịch sử, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam phải chịu một tai họa thảm khốc và kinh khiếp đến như thế. Trong vòng 5-6 tháng và trên chính «vựa lúa» của xứ mà Tây gọi là Bắc Kỳ (Tonkin), hơn 2 triệu nông dân trên khoảng 6 triệu rưởi dân số miền này, tức khoảng một phần ba dân số, phải chết đói. Ta có thể hình dung tội ác diệt chủng này nghiêm trọng và lớn lao đến mức nào. Thực dân Pháp lúc bấy giờ nắm quyền cai trị các nước Đông Dương, gồm có Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào, hẳn phải chịu trách nhiệm pháp lý về nạn đói ấy. Quân lực phát xít Nhật dùng Việt Nam làm hậu cứ nuôi quân và tiếp liệu cho chiến tranh chắc chắn có trách nhiệm lớn trong tai họa khủng khiếp này. Thế mà cho đến nay, chưa có một chính phủ nào chịu tra cứu tường tận, thống kê chính xác, và lập hồ sơ vụ án để xét xử và đền bù thiệt hại.
VÀI NHÂN CHỨNG TƯỜNG THUẬT NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU
Học giả Lưu Công Thành, cũng là một nhân chứng, đã viết: «Có thể nói nạn đói năm At Dậu là một cảnh tượng khủng khiếp nhất trong lịch sử! Những tháng đầu năm đó, trên các nẻo đường chính ở những đô thị lớn, hàng đoàn người già trẻ, lớn bé thất thểu dắt nhau đi cầu thực, tất cả chỉ còn da bọc xương… Ở một vài nơi có Hội từ thiện tổ chức phát cháo cứu trợ, nhưng có người nhận cháo rồi vẫn lăn ra chết vì quá kiệt sức! (…) Thời điểm xảy ra nạn đói là vào mùa đông nên cứ mỗi đêm sáng ra lại có thêm rất nhiều người là nạn nhân của tử thần. Người chết nhiều đến nỗi Sở Vệ Sinh và Bệnh Viện thành phố phải thuê xe bò đi hốt xác và tổ chức cho nhiều đơn vị tư nhân đấu thầu việc này. Số liệu năm đó cho biết: có hơn 2,5 triệu người chết!» Không thấy ông Lưu Công Thành cho biết đã dựa vào tài liệu nào để nói rằng số thương vong, theo số liệu, lên đến hơn 2,5 triệu người!
Ông Lưu Công Thành tiếp: «Hậu quả là dân một số nơi gần như giảm đi quá nửa, một phần chết đói tại sinh quán, một phần bỏ làng đi rồi không trở về nữa. Tất cả dẫn đến tình trạng thiếu hụt sức lao động và ruộng canh tác bỏ không rất nhiều. Chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng nặng, gia súc (kể cả chó) không còn bao nhiêu do bị giết để lấy thịt. Thậm chí có một số câu chuyện kể rằng có hiện tượng bắt cóc trẻ con để lấy thịt! Một nhân viên tại Sở Cảnh Sát Hải Phòng thừa nhận như vậy, tuy nhiên chính quyền không xét xử công khai vì sợ lòng dân hoang mang.»
Ong Đỗ Hữu Nghiêm tường thuật theo ký ức trong một bài viết có bổ sung ngày 13.12.2004 tại Dayton, Ohio, như sau. «Ở miền quê tôi, làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, khu vực giáp ranh với huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây số, chỉ mới lên bảy tuổi, tôi còn nhớ cảnh thương tâm (…) người đói lả nằm ngã lăn bừa bãi khắp nơi ở giữa hay bên đường, trên đồng ruộng, trước cửa nhà, (…) rồi chết tất tưởi trong tình cảnh tứ cố vô thân, rách rưới. Số người chết đông đảo đến nỗi chôn không xuể, khiến bị nhiễm trùng và có nơi đã có dịch.»
Ong Nghiêm viết tiếp: «Ở đầu làng tôi, bên kia sông, (…) người làng tôi thấy có quá nhiều người chết la liệt ở cả hai bên sông, nên những người còn khỏe mạnh rủ nhau đi (…) thu lượm những xác chết lại, (…) đem chôn vùi như ma đuổi tất cả số người đói đó trong một chiếc hố tập thể. Trong số người chết, có cả những người còn ngoắc ngoải, chưa hết hẳn, có người còn rên lên: «Đừng chôn sống chúng tôi, để chúng tôi chết hẳn đã.» Bất chấp những lời than vãn đó, người còn khỏe mạnh cứ lấp đất vội vàng trên những thân thể còn chút hơi sống đó và tiếng kêu chỉ tắt hẳn khi những tảng đất định mệnh bên bờ sông được lấp đầy! Hình ảnh đó ám ảnh đám trẻ chúng tôi nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm mồ tập thể đi theo chúng tôi khắp nơi, đến tận giấc mơ hãi hùng trên giường ngủ. (…) Đầu cầu tre bên làng, có một thanh niên gần chết nằm im lìm đầu xóm giữa ngay ngã ba đường vì không còn hơi sức cử động. Thấy thế đám trẻ tinh nghịch trong làng chạy đến xúm xít bu quanh xem người nằm đói có lẽ đang hấp hối. Một thanh niên còn trẻ nhưng trông như một cụ lão già, quần áo tả tươi, rách nát, nhăn nheo, chỉ còn da bọc xương, để lộ cả mông và bộ phận sinh dục. Bỗng nhiên một đứa tinh quái, nghịch độc, bẻ một cành tre, rồi chọc vào hậu môn người sắp chết. Thân thể đáng thương kia chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có vẻ đau đớn mà không phản ứng gì được. Một chú bé đứng xem gần đó bịt mặt, với đôi mắt đỏ hoe sợ hãi vội quay đi, chạy trốn về nhà.»
Ong Nghiêm tiếp tục kể: «Tại Ninh Cường, cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng hai mươi cây số đường bộ, nằm ở giữa vùng Đồng Bằng Bắc Việt, có lẽ là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của châu thổ sông Hồng, theo lời chứng của một linh mục, thì ở nhà Chung Ninh Cuờng lúc đó (năm 1945) mọi người chỉ được ăn một bữa. (…) Những người từ các làng quê kéo ra xin ăn, vì không còn thóc hay khoai sắn để ăn. Quân đội Nhật ra lệnh, dưới áp lực súng ống lưỡi lê, cho tất cả các nông gia phải đóng thuế bằng hiện vật, tức là phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào các kho chứa của nhà nước lúc đó mà người Nhật đã chiếm đóng và quản lý. Có cả trăm người lết đến khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú trong các lều tranh bên vệ đường… Thấy thế, Nhà Chung cho nhà bếp nấu cháo, phân phát cho những người đói ăn. Có người ăn được bát cháo hôm trước, thì hôm sau lăn đùng ra chết; người ta chết chồng lên nhau cả hằng chục hằng trăm không đếm cho xiết.»
Cũng theo ông Nghiêm, tại Thái Bình, một nhân chứng đặc biệt ghi nhận như sau: «Tháng Ba năm ấy, nay quen gọi là tháng Ba đói của năm At Dậu, 1945, (…) nhiều người đói quá, đã chết vì đói. Nhiều người đói quá, nên đành bỏ nhà, bỏ quê. Chiều hôm ấy, tôi đi bộ từ Thái Bình về Thượng Phúc. Đường vắng. Thỉnh thoảng tôi gặp những thân người tiều tụy ốm o, lê bước, ngẩn ngơ, mệt mỏi. Họ đi kiếm ăn. Đi một mình, hoặc đi chung gia đình. Họ tìm bới hy vọng ở những đám cỏ, ở những đống rác bụi cây. Đến gần một bờ sông, tôi thấy ba người gầy guộc nằm bất động. Một phụ nữ trẻ đã chết, tay vẫn ôm đứa con nhỏ. Đứa con nhỏ cũng đã chết, miệng còn ngậm vú người mẹ đã chết. Một người đàn ông trẻ nằm sát bên kia đứa nhỏ đã chết, tay như đang cố với tìm chiếc chiếu rách cạnh bên, để đắp cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết. Tôi nghẹn ngào ngồi lại. Anh nhìn tôi. Vài phút sau, anh tắt thở.»
HỒI KÝ LÊ VĂN LĂNG: Ở THÁI BÌNH, ĂN CẢ THỊT NGƯỜI!
Ong Lê Văn Lăng «chỉ xin thuật lại những mẩu chuyện 'mắt thấy tai nghe' trong những tháng ngày đen tối ấy» trong tập hồi ký của ông: «Cùng với cả miền Bắc Việt Nam lúc đó, cuối năm 1944, đầu năm 1945, Thái Bình cũng đã phải gánh chịu 'quốc nạn' này. (…) Tháng 11 năm ấy, tiết trời đặc biệt rét đến sớm hơn mọi năm, khiến con người ta ai cũng thấy đói 'mọi lúc mọi nơi'. (…) Càng rét người ta lại càng thấy đói, càng đói người ta lại càng thấy rét, cái vòng lẩn quẩn ấy bao vây dân nghèo ngày một gay gắt hơn bao giờ hết. Thái Bình thời ấy được mệnh danh là 'vựa lúa' của miền Bắc với những cánh đồng 'cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi'. Nhưng thật trớ trêu, chính ở trên mảnh đất ấy, cái đói đến với tầng lớp 'lê dân' mới thật dữ dội kinh khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng bình thường của con người. Quân Nhật thông qua chính quyền bảo hộ Pháp buộc nông dân phải nộp hết thóc lúa cho chúng để phục vụ cho lính 'Thiên Hoàng', rồi lại cưỡng ép phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân năm ấy, để dành đất trồng đay làm bao công sự chiến đấu chống lại quân đồng minh. Thật là 'họa vô đơn chí', năm đó Thái Bình bị mất trắng vụ lúa do bị hạn hán hoành hành khắp nơi.(…) Tất cả những gì ăn được người ta đã ăn hết cả rồi, khoai sắn củ còn non biến mất quá nhanh vào dạ dày lép kẹp, rồi gia súc chó mèo đều lần lượt phải 'hy sinh' cho bao tử của chủ.»
Ong Lăng tiếp: «Không phải mọi người đều chịu cái đói; ở thành thị, công chức, người đi buôn vẫn sống bình thường, tuy có điều vất vả; chính nông dân ở các làng mới bị đói nhiều ngày trên mảnh đất ruộng vườn của họ. Không còn gì để bỏ vào bụng nữa, người dân lam lũ từ các vùng chung quanh bắt đầu ùn ùn kéo nhau về thị xã trung tâm. Nhiều huyện như Kiến Xương, Tiền Hải, người ta kiếm ăn bằng mọi cách để rồi ngã chết ra cả nhà. Những người còn sức đi được thì đi thành từng đoàn, họ lê bước trên những nẻo đường về thị xã với bộ quần áo rách rưới, có người gần như trần truồng vì đã bán những bộ quần áo lành lặn để đi đổi lấy gạo ăn. Cái đói cái rét cắt thịt như thúc giục họ tiến bước về phía trước. Những người nào đói quá thì lả đi gục xuống để rồi không bao giờ dậy nổi nữa. Hai bên đường, thây người chết đói ngã ra như rạ, lại càng thúc giục họ đổ về thị xã Thái Bình bất chấp một vành đai lính tráng bao quanh khu vực thị xã ngăn không cho họ vào. Tôi nhớ rất rõ lúc ấy là vào khoảng gần tết, trời mưa phùn âm ỉ kéo dài suốt cả tuần lễ khiến cho cái rét lạnh căm căm càng thúc đẩy làm tăng cái đói cồn cào xé ruột xé gan, ăn được một chút là thấy đói ngay, lúc nào cũng cảm thấy đói. Ở các chợ trong thị xã, người dồn về rất đông mặc dù bị lính xua đuổi rất ráo riết, nhưng sáng nào người ta cũng hốt được vài ba xác chết vì đói rét, hoặc nằm ngang chợ hoặc dưới các mái hiên nhà.»
Ong Lê Văn Lăng lúc bấy giờ là nhà giáo, dạy ở trường tư thục Pascal tại thị xã Thái Bình và vừa dạy kèm con cái của ông Hào Thùy và ở trọ luôn đó. Ong kể: «Hôm nào đến trường cũng nhặt được hai ba xác trẻ em đã chết cóng từ đêm hôm trước, tôi cùng học trò phải mang đi chôn sau trường. Một hôm, nhân có việc đi chợ Kiến Xương thì tôi bắt gặp một người đàn ông có dáng lực điền đang gánh một gánh có vẻ khá nặng, phía trên có đậy một chiếc nón lá rách. Bỗng tôi phát hiện có tiếng gì tựa như âm thanh của trẻ sơ sinh phát ra từ đôi quang gánh ấy, tôi bèn lập tức níu ông ta lại xem có phải không, thì mới biết trong đó có khoảng chục đứa bé mới sinh còn đỏ hỏn mà vài đứa đã chết. Ong ta thú thật là đã gánh chúng đến từ một làng vùng xa định dến Duyên Hà gởi cho các bà xơ từ thiện. (…) Tôi hết sức phẫn nộ và bảo ông ta còn đến gần 30 cây số đường đất nữa mới đến được chỗ ấy, mà chắc chắn là khi đến nơi thì những đứa bé sẽ không còn sống nữa đâu.»
Sau khi bảo ông tá điền đem gởi các trẻ sơ sinh ấy tại nhà ông Lại Mân, địa chủ giàu nhất Thái Bình, ông Lăng đi tiếp. Ong kể: «Tôi tiếp tục đi đến chợ Kiến Xương thì thấy rất nhiều xác chết nằm la liệt trên sân chợ. Có một người phụ nữ đã chết không biết từ lúc nào nhưng đứa con nhỏ vẫn còn sống, đang bám vào ngực mẹ nó mà bươi bươi đôi vú một cách cuống quít rồi nhai lấy nhai để không thôi. Sau đó vài giờ, tôi về ngang chợ thì thấy đứa bé cũng đã chết. (…)
Bữa nọ có dịp đi ngang qua Cầu Bo thấy có vẻ khác lạ ở đầu cầu, tôi cùng các học trò tò mò đứng nhìn xem, thì đã phát giác có khoảng ba, bốn gia đình đang ở đó, có người đang luộc thịt những người hàng xóm để ăn, xương tay xương chân vứt ngay bên cạnh! Đêm mùa đông rét mướt lạnh lẽo cũng trở nên không yên tĩnh tí nào khi hằng đêm đương ngủ, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng ré lên của trẻ con. Phóng vội ra ngõ với cây đèn bão trên tay, mọi người sẽ bắt gặp xác đứa trẻ bị người lớn hút máu nóng với que tre cắm trong cuống họng. Đêm nào cũng có vài ba vụ như vậy mà kẻ thủ ác cũng vẫn không có người buồn bắt bớ tra cứu nữa.»
TƯ NHÂN CHỊU BẦM DẬP ĐỂ CỨU ĐÓI, ĐÀNH BUÔNG TAY!
Quá bức xúc trước cảnh chết chóc thảm thiết, ông giáo Lăng và bạn bè cùng học trò đã nảy ra sáng kiến đứng lên vận động quyên góp để cứu đói. Lần đầu tiên phong trào «lá lành đùm lá rách» được phát động ở Thái Bình. Ong chủ nhà Hào Thùy, một hào phú trong vùng chuyên đi thu mua gạo cho nhà nước Pháp, đã đóng góp mở màn 10 tạ gạo nếp. Phong trào quyên góp lan rộng đến các trường khác và có sự tham gia của các phụ huynh học sinh nữa. Cũng gần đến tết nguyên đán rồi, tiện thể bà con tổ chức nấu bánh chưng để phát cho người nghèo đói. Giới công chức trong tỉnh cũng kéo đến tham gia, người góp gạo, kẻ góp nếp, đậu, người khác góp lá dong, công việc gói bánh kéo dài trong 5, 6 ngày liền. Mấy chục lò bánh xuất hiện ngay ở sân trường. Kết quả có đến 6.500 bánh nặng ngót nghét 1 kilô, được xếp gọn trong kho nhà ông Hào Thùy.
Thế rồi đến hồi phát bánh, tưởng nhỏ mà thành to chuyện. Biết rằng dân nghèo vốn đói đã lâu, khó giữ được bình tĩnh khi thấy cái ăn, nên ông giáo Lăng đem bánh ra khu nghĩa địa Thái Bình, dùng cổng hé mở cho từng người vào nhận bánh, đánh dấu vào tay, rồi ra về trong trật tự. Ong giáo Lăng kể tiếp : «Thời gian đầu công việc có vẻ thuân lợi… Nhưng độ nửa giờ sau, chúng tôi quá đỗi kinh hoàng khi nghe thấy tiếng chạy của hàng ngàn người từ các làng lân cận kéo đến, họ vừa chạy vừa la «Phát bánh chưng chưa! Phát bánh chưng chưa!» với âm thanh ồn ào và náo nhiệt chưa từng thấy. Họ leo tường vào nghĩa địa một cách chóng vánh, rồi hàng nghìn người chen chúc dẫm đạp lên nhau, dẫm đạp lên cả bánh chưng. Tiếng người gọi nhau ơi ới hòa lẫn tiếng khóc thét của trẻ con trong khu vực nghĩa địa mênh mông đó. Chúng tôi chỉ còn biết bất lực đứng nhìn, ai nấy người đầy bùn đất nhão nhoẹt, để rồi khi đám đông rút đi thì dưới mặt đất nào là bánh chưng bị dẫm đạp nát nhoẹt cả ra, có vài ba xác trẻ em bị chèn đè dẫm đạp đến chết. (..) Tôi không thể cầm được nước mắt. Chúng tôi lắc đầu ngao ngán vì đã không thể nào lường trước được tình huống… »
Cũng may, hôm ấy chỉ mới kịp đem ra nghĩa địa vài trăm bánh chưng thôi. Nên phải tính kế khác để phát cho hết. Trong phiên họp nhà giáo của tỉnh sau đó, ông Đốc Quýnh là viên quan trông coi về giáo dục trong toàn tỉnh Thái Bình mới được hay biết vụ phát bánh chưng đổ bể. Đốc Quýnh la rầy trách mắng các thầy kém tổ chức và vỗ ngực xung phong hôm sau làm một chuyến ra ngoài thành biểu diễn phát bánh chưng làm gương. Ong giáo Lăng kể tiếp: «Sáng hôm sau, ông Quýnh đóng bộ veston cà vạt cẩn thận có batoong bên cạnh, còn bà vợ ông thì áo dài đánh xe đến chỗ chúng tôi. Hai ông bà đi trên hai chiếc xe kéo rất ư là sang trọng (thời ấy người giàu có quan quyền đều có xe kéo riêng, phu xe được nuôi ăn ở trong nhà, xe được đóng rất kỹ lại được trang trí bằng đồng sáng loáng, rồi lại được sơn vàng toàn bộ rất rực rỡ) đến trường chúng tôi, gọi bảo chất lên cho mỗi xe độ khoảng 50 bánh chưng và lên đường xuất phát trực chỉ các làng xa ở ngoại thành. Tôi liền cho vài học sinh đi theo sau để nắm tình hình, thì khoảng độ non giờ sau có em về báo là ngài Đốc Quýnh và phu nhân đã 'gặp nạn' rồi.» Thực vậy, xe chưa đi đến đâu thì đã bị đám đông ùn ùn vừa chạy tới vừa thét vang dội «Phát bánh chưng! Phát bánh chưng!», rồi chận đường, níu kéo xe, dẫm đạp, chen lấn, dày xéo lên nhau để cướp bánh, bất kể ông Đốc điên tiết lên dùng batoong phất lia lịa vào họ. Sau khi đám đông rút lui, theo ông giáo Lăng kể lại, «hai chiếc xe kéo đẹp đẽ bị gãy nát thảm thương, hai ông bà thì quần áo rách bươm, mặt mày bùn đất bê bết ngao ngán lắc đầu, bánh chưng thì rơi vãi nhão nhoẹt trộn lẫn với bùn đất. Anh đánh xe thì mặt mũi bầm tím, cộng thêm xác vài ba đứa trẻ kiệt sức chết vì bị dẫm đạp trong cơn hỗn loạn.»
Ong giáo Lăng kể tiếp: «Cuối cùng thì chúng tôi cũng phân phát hết được số bánh chưng tồn đọng bằng cách cho các học sinh mang trong người mỗi em vài bánh, tỏa đến các làng xa vào ban đêm để phát cho từng nhà quá đói rét. Tất nhiên việc thiên vị của các em là không thể tránh khỏi khi đi phát như thế, nhưng chúng tôi không thể có sự chọn lựa nào khác.»
Được biết, tại nhiều tỉnh khác, có nhà phú hào trong làng động lòng trắc ẩn trước cảnh chết chóc thê thảm, đã cho nấu cháo phát thí cho bà con ăn đỡ đói. Nhưng chỉ vài giờ sau, hoặc hôm sau, là phải đóng cửa then gài thật kỹ, vì số người đói ăn kéo nhau đến quá đông, gây ra cảnh xô xát, cướp giựt bấn loạn cả lên. Có nơi, dân đói tràn vào nhà, đập phá và cướp bóc hết lúa gạo của khổ chủ. Từ đó, tin đồn loan đi, chẳng mấy ai dám ra tay làm nghĩa hiệp nữa. Cứ thế, mỗi ngày lưỡi hái của tử thần vẫn lặng lẽ cướp đi hàng ngàn hàng vạn người lê dân cùng khổ, bất hạnh, cô thế, bất lực, đành cam chịu bản án của số mệnh…
AI GÂY RA TỘI ÁC DIỆT CHỦNG KINH HOÀNG NÀY ?
Theo ông Lưu Công Thành, có ba nguyên nhân lớn liên quan đến chính sách của thực dân Pháp đang đô hộ nước ta lúc bấy giờ.
« 1- Do chính sách thu thóc của Pháp: trung bình mỗi năm Bắc Kỳ thu hoạch được 1.275.000 tấn thóc (1927-1931) (đã trừ ra 325.000 tấn dùng vào xuất khẩu, nấu rượu và làm giống). Tuy nhiên số thóc này phải nuôi đến 6.500.000 người dân, chưa kể đến năm 1944 lại có thêm 100.000 quân Nhật, bọn chúng lại còn lấy thêm để vận chuyển viện trợ cho lực lượng tại Quảng Tây. Tháng 7.1945, giá chính thức do Nhật ấn định là 55$ một tạ (giá mua vào của nhà nước), trong khi thị trường lên đến 800$ một tạ. Kết quả, nông dân Bắc Kỳ nghèo xác xơ, phải bán cả nhà cửa con cái để có tiền nuôi gia đình. Năm 1944, Pháp còn bí mật thu thêm 186.180 tấn để trữ vào kho, làm lương thực khi có chiến tranh Pháp-Nhật.
« 2- Chính sách bắt dân nhổ lúa trồng cây công nghiệp cho Nhật: chính phủ Đông Dương bắt các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình nhổ thóc trồng các cây công nghiệp để cung cấp cho Nhật.[1] Tờ trình của thống sứ Bắc Kỳ Chauvet năm 1944 cho biết: diện tích trồng các loại cây trên đã lên đến 45.000 mẫu. Làm một phép tính nhỏ thì với diện tích đó người dân có thể khai thác 585.000 tạ thóc (năng xuất 13 tạ/mẫu). Nếu trồng thêm khoai, khoai mì thì được thêm 110.000 tạ, tính theo dinh dưỡng là tương đương 72.000 tạ thóc. Như vậy, 45.000 mẫu = 657.000 tạ thóc = 547.500 nhân mạng! Một con số lạnh lùng và tàn nhẫn!

« 3- Sự cố ý của Pháp để thủ tiêu tinh thần khởi nghĩa của nhân dân và (vì có) kế hoạch thuê nhân công với giá thành rẻ, một khi tại các nông thôn đã không còn đủ ăn. Bulletin économique de l’Indochine năm 1944 cho biết: 'người ta vẫn thấy gạo Nam Kỳ chở ra tới Vinh, nhưng người Pháp cho tích trữ lại trong các kho ở đó và chỉ cho ra tới Bắc Kỳ một số rất ít.', năm đó tại Nam Kỳ giá gạo rẻ đến nỗi nhà đèn Chợ Quán phải đốt thóc thay thế cho than đá.»
Về kế hoạch bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp, ông Lưu Công Thành trích dẫn Desrousseaux viết như sau: «Người nhà quê Việt Nam chỉ chịu rời bỏ làng xóm để làm việc khi hắn chết đói, nên phải đi đến kết luận lạ lùng này là phương thuốc để chữa sự quẫn bách hiện tại (sự thiếu nhân công ở các đồn điền cao su và mỏ) là phải bần cùng hóa nông thôn, rút bỏ những sự cấp phát, hạ giá nông nghiệp.»
Trong bài “Gây ra nạn đói năm 1945”, Gs Trần Gia Phụng cho rằng có “nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói 1945 tại Bắc Việt, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ chính sách Nhật Bản áp dụng tại Việt Nam trong thế chiến thứ nhì (1939-1945).” Để dẫn chứng, ông Phụng trích dẫn ông Ngô Thế Vinh viết từ tập tài liệu “Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta” của một người Nhật, ông Yoshizawa Minami; ông này xác nhận như sau: “Tình hình khu vực Việt Nam thật đặc biệt do sự có mặt thường xuyên của 80 ngàn quân ta và 200 ngàn lực lượng hậu cần đã khiến tình trạng kinh tế ở đây hỗn loạn đến cực độ. (…) Đông Dương có một vị trí then chốt đối với Nhật Bản về lương thực. Ngoài lượng gạo nhập khẩu vào Nhật, quân đội Nhật còn rất cần một trữ lượng gạo lớn lao để tiếp tế cho các mặt trận đang lan rộng ra khắp Á Châu và khu vực Thái Bình Dương. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp gây nạn chết đói cho hai triệu người Việt năm 1945…”[2]
Theo ông Phụng, cũng do chính sách của Nhật buộc nông dân phải dùng đất đai phì nhiêu để trồng cây kỹ nghệ, những hoa màu chính giảm xuống rất đáng kể. Dân chúng nông thôn đói khổ đành sống qua ngày với những loại thực phẩm phụ. Trong khi đó, theo thỏa hiệp với Nhật ngày 19/08/1942, nhà cầm quyền thực dân Pháp tại Đông Dương đã phải xuất cảng sang Nhật trên 1 triệu tấn gạo hạng tốt nhất trong các vụ mùa 1942-1943. Để bảo đảm, Pháp lập ra những kho gạo an toàn. Viên thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ còn buộc các làng xã phải lập những kho dự trữ tương ứng với sản lượng lúa gạo của làng đó, để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà cầm quyền Pháp.
Ong Phụng trích quyển «Việt Nam 1945, Đi Tìm Quyền Lực»[3] của ông David G. Marr, tt. 97-98, rằng trong khi lúa gạo khan hiếm, người Pháp lại mua gạo để trữ cho các kho quân lương. Người Nhật cũng làm như vậy, và đến tháng 05/1945 họ đã tích lũy một số gạo đủ dùng trong 6 tháng cho Quân Đoàn thứ 38 của họ ở Đông Dương. Theo Ngô Thế Vinh, bđd tr.171, nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm 1944 trở đi khi thời tiết xấu làm cho vụ mùa năm ấy tiếp tục hư hại. Trong khi dân đói ăn, kho gạo của Pháp và Nhật luôn đầy đủ. Ong Vinh trích dẫn lời chứng của một người Nhật, ông Kawai, quản lý kho gạo ở Nam Định, nơi nạn đói nặng nề nhất: “Tại một khu nhà thờ Thiên Chúa giáo (do Nhật trưng dụng làm kho), gạo chứa đầy ấp trong kho, lại thấy người chết đói ngã lăn dọc đường suốt từ Nam Định tới Hà Nội, tôi đã cố thuyết phục tùy viên kinh tế của đại sứ quán Nhật mở các kho gạo đó nhưng họ không nghe.”
Ngoài Pháp và Nhật ra, theo ông Phụng, điều đáng ghi nhận thêm ở đây là nạn đói năm At Dậu làm cho dân chúng Việt Nam thêm nghèo đói, cơ cực hơn trước nhiều, nên đã tạo một môi trường vô cùng thuận lợi cho Cộng sản Việt Nam (CSVN) núp dưới danh nghĩa Việt Minh lợi dụng để tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng và phát động kế hoạch phát triển lực lượng kháng chiến của họ. Trước tiên, họ xúi dân chúng chống đối việc trưng mua lúa gạo, đánh phá các kho lúa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, và nhờ thế mà chiếm được lòng dân. Tiếp đến, theo David Marr, sđd tr.104, họ âm thầm chận bắt những chuyến xe hoặc chuyến ghe chở gạo từ miền Nam ra miền Bắc để đem về tiếp tế cho mật khu của họ. Có người vì quá đói nên phải tìm đến đó kiếm ăn và gia nhập Mặt Trận Việt Minh luôn. Hành động của Việt Minh đánh phá các tuyến đường tiếp vận thật lưỡng tiện: cản trở đường tiếp viện của Pháp và Nhật từ Nam ra Bắc, và làm cho chiến dịch tuyên truyền kích động quần chúng của họ ngày càng mở rộng khi mà nạn đói ngày càng trở nên trầm trọng. Chính vì đó, CSVN phải được coi là tòng phạm trong vụ đói năm Ất Dậu vậy. Lại nữa, theo Ngô Thế Vinh, bđd tr.173, sau ngày tuyên bố độc lập 02/09/1945, Việt Minh đã tịch thu toàn bộ tiền bạc của các quỹ cứu đói trên toàn quốc, nghĩa là cướp lấy tài sản của những kẻ đang đói được bà con hằng tâm khắp nước giúp đỡ.
VÌ “QUYỀN LỢI NHÀ NƯỚC”, HÀ NỘI BÁN ĐỨNG DÂN VIỆT
Ai cũng biết, nạn đói khủng khiếp năm At Dậu do hai thủ phạm chính gây ra là phát xít Nhật và thực dân Pháp. Pháp vui mừng vì tưởng rằng trận đói sẽ khiến cho người dân Việt kiệt sức đề kháng thực dân Pháp, đang khi ngược lại Việt Minh cũng vui mừng nhờ biết khai thác được lòng căm thù của dân chúng để lôi kéo dân về với họ. Sau khi thua trận và ký hiệp định đình chiến Genève với Việt Minh năm 1954, Pháp xoay qua o bế Hà Nội và chống lại sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam với việc dựng lên chính phủ Ngô Đình Diệm ở Miền Nam VN. Rồi từ đó đến nay, vì “quyền lợi nhà nước”, Hà Nội ngậm bồ hòn bỏ qua tội ác của Pháp trong vụ đói năm At Dậu và tội ác Pháp gây chiến tranh chinh phục lại Đông Dương. Chỉ có dân Việt Nam là bị bán đứng, phải còng lưng cam chịu đói khổ chết chóc dài dài từ cái Tết At Dậu định mệnh ấy cho đến suốt 30 năm chiến tranh khốc liệt tiếp theo, gây thêm trên 3 triệu tử vong phía người Việt và cảnh đất nước tang thương vô cùng tận. Rồi từ 1975 đến nay, CSVN ngồi xổm chễm chệ trên đầu trên cổ dân, cướp công kháng chiến của dân, và gây ra nghi kỵ, xăm xỉa, hận thù chồng chất thêm giữa người Việt với người Việt để dễ bề cai trị.
Thực vậy, theo giáo sư Trần Gia Phụng trả lời phỏng vấn của VNN năm 2004, thì vào năm 1945 Việt Minh không chỉ khai thác lòng căm thù chống Pháp của người dân Việt, mà còn là tòng phạm với Pháp và Nhật do việc lợi dụng nạn đói diệt chủng này. Gs Phụng nhắc lại rằng, trong bài viết “Nhật Bản và chiến tranh Việt Nam” nhân dịp Đại Học Đông Kinh tổ chức hội luận ngày 14/01/2002 về đề tài “Hồi ức chiến tranh…”, ông đã ghi nhận dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (của tổng thống họ Ngô), Nhật ký thỏa ước với Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 13/05/1959 trả 39 triệu mỹ kim để bồi thường chiến tranh, chứ không phải là bồi thường thiệt hại về nạn đói 1945, và còn viện trợ cho VNCH xây dựng đập Đa Nhim ở Đà Lạt nữa. Sau 1975, Nhật viện trợ nhiều cho Hà Nội và còn giúp xây dựng cây cầu Cần Thơ qua sông Hậu Giang khởi đầu từ năm 2005. Vì “quyền lợi nhà nước”, chế độ CSVN cúi đầu ăn xin nhục nhã viện trợ và đầu tư Nhật, ngậm bồ hòn về tội ác của Nhật đối với VN trong thế chiến thứ hai, nhất là về tội ác trực tiếp gây ra nạn đói năm At Dậu mà CSVN đã góp phần với Nhật và Pháp.
Học giả Trần Khuê (Trung tâm Hán Nôm của chế độ Hà Nội), trong bài viết “Không được phép xuyên tạc lịch sử” tháng 9/1998, đã phê bình gay gắt cuộc hội thảo hai ngày 27 và 28/03/ 1998 về “Mối quan hệ Việt-Nhật trong lịch sử 1940-1975” do Viện Khoa Học Xã Hội tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức. Ong Trần Khuê cho rằng chế độ Hà Nội đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi không có lấy cho cuộc hội thảo “một báo cáo khoa học nào khảo sát và phân tích nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra và làm chết hai triệu dồng bào ta”, một “sự kiện lịch sử quan trọng (…) gây nhức nhối lương tâm của dân tộc và nhân loại”. Ong Trần khuê cũng kinh ngạc không thấy nhắc đến, trong tài liệu tham khảo cũng như trong lúc thảo luận, công trình nghiên cứu trước đó về nạn đói năm At Dậu dày 728 trang do Gs người Nhật Furuta Moto hợp tác với Gs Văn Tạo cùng 14 đồng tác giả đã khảo sát tới 334 đơn vị tư liệu và trên thực địa với những nhân chứng sống ở Việt Nam trong mấy năm liền. Công trình này đã xác nhận “con số hai triệu đồng bào ta đã chết đói năm 45” sau khi đã được các nhà khoa học Nhật tranh luận khá dữ dội. Ay thế mà, theo ông Trần Khuê, nhóm nghiên cứu Đinh Văn Liên (phó tiến sĩ khoa học lịch sử, giám đốc Trung tâm Sử học) dám xuyên tạc lịch sử, lập lờ ấm ứ nói “hơn một triệu” người chết trong bản báo cáo của ông trong cuộc hội thảo nói trên.
Ong Trần Khuê còn nhắc đến “một nhà khoa học Nhật – giáo sư Tabuchi Yukichita – đã viết hẳn một cuốn sách với nhan đề: “Chúng ta có nghe tiếng kêu của hai triệu người chết đói không?”. Ong Trần Khuê tiếp: “Hẳn là nhà khoa học Nhật này phải có một trái tim, một lương tâm nào mới viết đuợc một cuốn sách mà ngay cái tên của nó đã chứa chan tinh thần nhân văn như thế.” Ong Trần Khuê còn tỏ ra kinh ngạc hơn nữa về cách nói nâng bi của ông Liên khi ông này cứ “nhấn đi nhấn lại tính chất nhân đạo của viện trợ Nhật” trong giai đoạn 1945-1975, như cố lấp liếm về tội ác chiến tranh của phát xít Nhật, để rồi quyết chịu đấm ăn xôi “viện trợ” của Nhật cho Hà Nội ngày nay! Ong Trần Khuê còn thấy buồn cười khi nghe ông Liên “coi việc phát xít Nhật xâm lược nước ta là một cơ may” “để hiểu biết nhau”, “một điều kiện thuận lợi cho những mối quan hệ liên tục và biến đổi sau này vì lợi ích của mỗi dân tộc”! Ong Trần Khuê tiếp: “Than ôi, một ông phó tiến sĩ khoa học lịch sử lại có thể nhầm lẫn giữa mục đích với hệ quả một cách thảm hại đến như thế”.
Tóm lại, trong nạn đói năm At Dậu 1945, hơn hai triệu vong linh Việt Nam đã bị hy sinh một cách thảm thương, oan ức, phí phạm, cho các thế lực ngoại bang là thực dân Pháp và phát xít Nhật cũng như cho đám chính khứa điếm thúi CSVN, mà cho mãi đến ngày nay những oan hồn này vẫn bị lảng quên, ruồng rẫy, và không ai dám lên tiếng để giải oan cho họ. Dân tộc Việt Nam đã bị CSVN phản bội, bán đứng cho các thế lực quốc tế, chắc không thể ngửng đầu lên nổi bao lâu oan hồn của hơn hai triệu nạn nhân trong vụ đói năm At Dậu và ba triệu nạn nhân trong chiến tranh Việt Nam ở cả hai Miền Nam Bắc VN chưa được tưởng niệm một cách xứng đáng.
Fribourg ngày 21/01/2005


[1] Theo Gs Trần Gia Phụng, thực dân Pháp buộc giới nông gia Việt Nam phải bớt trồng lúa để trồng cây kỹ nghệ, như bông vải, đay, gai, cây có dầu, để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu của Đông Dương vì đường nhập cảng từ Pháp gặp khó khăn, và cũng vì sức ép của quân đội chiếm đóng Nhật để cung ứng cho nhu cầu chiến lược của họ. Theo báo Lục Tỉnh Tân Văn ngày 04/08/1943, Nhật buộc nông dân phải trồng cây gai ở Bắc Kỳ, tăng diện tích trồng gai lên 10 nghìn mẫu để có thể sản xuất 2.600.000 chiếc bao gai. Trong vòng 3 năm, diện tích trồng cây kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cõi Đông Dương, từ 88.200 mẫu năm 1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng tại Bắc Việt, diện tích này tăng hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm 1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.
[2] Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong bài «Từ At Dậu 1945- sáu mươi năm đi tới cây cầu Cần Thơ- 2005» đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2&3 năm 2000, tt 170-171.http://giadinhanphong.blogspot.com/2009/08/nan-oi-nam-at-dau-1945.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét